Thứ Bảy, 5 tháng 12, 2009

Thơ chân dung

Thơ cho bạn thơ của Phan Xuân Luật


NGUYỄN TƯỜNG VĂN

Phiến đá thuở nào lại trổ bông
Tự do mà chụp ảnh trên đồng
Nguyễn Trãi chết rồi còn muốn gặp
Cố gào bể phổi cũng như không.


ĐÀO ĐỨC TUẤN

Lạy chiều chiều chậm chậm thôi
Thơ như con gái mà đời phấn son
Thôi về với Ngõ Tịnh thôn
Nhặt hoa nấu nước tắm l. vợ ta.

Thứ Hai, 19 tháng 10, 2009

MẸ

Bông hồng cài áo
(THÍCH NHẤT HẠNH)

Ý niệm về mẹ thường không thể tách rời ý niệm về tình thương. Mà tình thương là một chất liệu ngọt ngào, êm dịu và cố nhiên là ngon lành. Con trẻ thiếu tình thương thì không lớn lên được. Người lớn thiếu tình thương thì cũng không lớn lên được. Cằn cỗi, héo mòn. Ngày mẹ tôi mất, tôi viết trong nhật ký : tại nạn lớn nhất đã xẩy ra cho tôi rồi! Lớn đến cách mấy mà mất mẹ thì cũng như không lớn, cũng cảm thấy bơ vơ, lạc lõng, cũng không hơn gì trẻ mồ côi. Những bài hát, những bài thơ ca tụng tình mẹ, bài nào cũng dễ hát, cũng hay. Người viết, dù không có tài ba, cũng có rung cảm chân thành; người hát ca, trừ là kẻ không có mẹ ngày từ thưở chưa có ý niệm, ai cũng cảm động khi nghe nói đến tình mẹ, đâu cũng có, thời nào cũng có. Bài thơ mất mẹ mà tôi thích nhất, từ hồi nhỏ, là một bài thơ rất giản dị. Mẹ đang còn sống, nhưng mỗi khi đọc bài ấy thì sợ sệt, lo âu… sợ sệt lo âu cho một cái gì còn xa, chưa đến, nhưng chắc chắn phải đến :Năm xưa tôi còn nhỏ mẹ tôi đã qua đời! lần đầu tiên tôi hiểu thân phận trẻ mồ côi. Quanh tôi ai cũng khóc Im lặng tôi sầu thôi để dòng nước mắt chảy là bớt khổ đi rồi… Hoàng hôn phủ trên mộ Chuông chùa nhẹ rơi rơi Tôi thấy tôi mất mẹ mất cả một bầu trời.Mẹ già như chuối Ba Hương Như xôi nếp một, như đường mía lau.Ngon biết bao nhiêu! Những lúc miệng vừa nhạt sau một cơn sốt, những lúc như thế thì không có món ăn gì có thể gợi được khẩu vị của ta. Chỉ khi nào mẹ đến, kéo chăn đắp lại ngực cho ta, đặt bàn tay (Bàn tay? Hay là tơ trời đâu la miên ? ) trên trán nóng ta và than thở “khổ chưa, con tôi”, ta mới thấy cảm thấy đầy đủ, ấm áp, thấm nhuần chất ngọt của tình mẹ, ngọt thơm như chuối ba hương, đường mía lau, xôi nếp một ấy, không bao giờ cùng tận. Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Nước trong nguồn chảy ra thì bất tuyệt. Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm thương yêu. Mẹ là giáo sư dạy về thương yêu, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời. Không có mẹ, tôi sẽ không biết thương yêu. Nhờ mẹ mà tôi biết được thế nào là tình chúng sinh; nhờ mẹ mà tôi có được chút ý niệm về đức từ bi. Vì mẹ là gốc của tình thương, nên ý niệm mẹ lấn trùm ý niệm thương yêu của tôn giáo vốn cũng dạy về tình thương. Đạo Phật có đức Quán Thế Âm, tôn sùng dưới hình thức mẹ. Em bé vừa mở miệng khóc thì mẹ đã chạy tới bên nôi. Mẹ hiện ra như một thiên thần dịu hiền, làm tiêu tan khổ đau lo âu. Đạo Chúa có đức Mẹ, Thánh nữ đồng trinh Maria. Trong tín ngưỡng bình dân Việt có Thánh Mẫu Liễu Hạnh, cũng dưới hình thức mẹ. Bởi vì chỉ cần nghe đến danh từ mẹ, ta đã thấy lòng tràn ngập yêu thương rồi. Mà từ yêu thương đi tới tín ngưỡng và hành động thì không xa, chỉ mấy bước.Tây phương không có ngày Vu Lan nhưng cũng có Ngày Mẹ (Mother’s Day) mồng mười tháng năm. Tôi nhà quê không biết cái tục ấy. Có một ngày tôi đi với thầy Thiên Ân, tới nhà sách ở khu Ginza, Đông Kinh, nửa đường gặp mấy người sinh viên Nhật, bạn của thầy Thiên Ân. Có một cô sinh viên hỏi nhỏ thầy Thiên Ân một câu, rồi lấy trong sắc ra một bông hoa cẩm chướng màu trắng cài vào khuy áo tràng của tôi. Tôi lạ lùng, bỡ ngỡ, không dám hỏi, cố giữ vẻ tự nhiên, nghĩ rằng có một tục lệ chi đó. Sau khi họ nói chuyện xong, chúng tôi vào nhà sách, thầy Thiên Ân mới giảng cho tôi biết đó là Ngày Mẹ, theo tục Tây phương. Nếu anh còn mẹ, anh sẽ được cài một bông hoa màu hồng trên áo, và anh sẽ tự hào được còn mẹ. Còn nếu anh mất mẹ, anh sẽ được cài trên áo một bông hoa trắng. Tôi nhìn lại bông hoa trắng trên áo mà bỗng thấy tủi thân. Tôi cũng mồ côi như bất cứ một đứa trẻ vô phúc, khốn nạn nào; chúng tôi không có được cài trên áo một bông hoa màu hồng. Người được hoa hồng sẽ thấy sung sướng nhớ rằng mình còn mẹ, và sẽ cố gắng để làm vui lòng mẹ, kẻo một mai người khuất núi, có khóc than cũng không còn kịp nữa. Tôi thấy cái tục cài hoa đó đẹp và nghĩ rằng mình có thể bắt chước, áp dụng trong ngày báo hiếu Vu Lan.Mẹ là một dòng suối, một kho tàng vô tận, vậy mà lắm lúc ta không biết, để lãng phí một cách oan uổng. Mẹ là một món quà lớn nhất mà cuộc đời tặng cho ta, những kẻ đã và đang có mẹ. Đừng có đợi đến khi mẹ chết rồi , mới nói : “trời ơi, tôi sống bên mẹ suốt mấy mươi năm trời mà chưa có lúc nào ‘nhìn kỹ’ được mặt mẹ.” Lúc nào cũng chỉ nhìn thoáng qua. Trao đổi vài câu ngắn ngủi. Xin tiền ăn quà. Đòi hỏi mọi chuyện. Ôm mẹ mà ngủ cho ấm. Giận dỗi. Hờn lẫy. Gây bao nhiêu chuyện rắc rối cho mẹ phải lo lắng, ốm mòn, thức khuya, dậy sớm vì con. Chết sớm cũng vì con. Để mẹ phải suốt đời bếp núc, vá may, giặt rửa, dọn dẹp. Và để mình bận rộn suốt đời, lên xuống ra vào lợi danh. Mẹ không có thì giờ nhìn kỹ con. Và con không có thì giờ nhìn kỹ mẹ. Để khi mẹ mất, mình có cảm nghĩ : thật như là mình chưa bao giờ thật có ý thức rằng mình có mẹ. Chiều nay khi đi học về, hoặc khi đi làm việc ở sở về, em hãy vào phòng mẹ với một nụ cười thật trầm lặng và thật bền. Em sẽ ngồi xuống bên mẹ. Sẽ bắt mẹ dừng kim chỉ, mà đừng nói năng chi. Rồi em sẽ nhìn mẹ thật lâu, thật kỹ để trông thấy mẹ, và để biết rằng mẹ đang sống và đang ngồi bên em. Cầm tay mẹ, em sẽ hỏi một câu ngắn làm mẹ chú ý. Em hỏi : “Mẹ ơi, mẹ có biết không ?” Mẹ sẽ hơi ngạc nhiên, và sẽ hỏi em, vừa cười vừa hỏi : “biết gì?” Vẫn nhìn vào mắt mẹ, vẫn giữ nụ cười trầm lặng và bền, em sẽ hỏi tiếp : “mẹ có biết là con thương mẹ không ?” Câu hỏi sẽ không cần được trả lời. Cho dù người lớn ba bốn mươi tuổi, cũng có thể hỏi một câu như thế, bởi vì người là con của mẹ. Mẹ và em sẽ đều trở thành bất diệt và ngày mai, mẹ mất, em sẽ không hối hận, đau lòng.Ngày Vu Lan ta nghe giảng và đọc sách nói về ngài Mục Liên và về sự hiếu để. Công cha, nghĩa mẹ. Bổn phận làm con. Ta lạy Phật cầu cho mẹ sống lâu. Hoặc lạy mười phương tăng chú nguyện cho mẹ được tiêu diêu nơi cực lạc, nếu mẹ đã mất. Con mà không có hiếu là con bỏ đi. Nhưng hiếu thì cũng do tình thương mà có; không có tình thương, hiếu chỉ là giả tạo, khó khăn, vụng về, cố gắng mệt nhọc. Mà có tình thương là có đủ hết rồi. Cần chi nói đến bổn phận. Thương mẹ, như vậy là đủ. Mà thương mẹ không phải là một bổn phận. Thương mẹ là một cái gì rất tự nhiên. Như khát nước thì uống. Con thì phải có mẹ, phải thương mẹ. Chữ phải đây không phải là luân lý, là bổn phận. Phải đây là lý đương nhiên. Con thì đương nhiên thương mẹ, cũng như khát thì đương nhiên đi tìm nước uống. Mẹ thương con, nên con thương mẹ. Con cần mẹ, mẹ cần con. Nếu mẹ không cần con, con không cần mẹ, thì đó không phải là mẹ, là con. Đó là lạm dụng danh từ mẹ con. Ngày xưa, thầy giáo hỏi rằng : “con mà thương mẹ thì phải làm thế nào ?” Tôi trả lời : “vâng lời, cố gắng, giúp đỡ, phụng dưỡng lúc mẹ về già và thờ phụng khi mẹ khuất núi.” Bây giờ thì tôi biết rằng : “con thương mẹ thì không phải “làm thế nào” gì hết. Cứ thương mẹ, thế là đủ lắm rồi, đủ hết rồi, cần chi phải hỏi làm thế nào nữa!”Thương mẹ không phải là một vấn đề luân lý đạo đức. Anh mà nghĩ rằng tôi viết bài này để khuyên anh về luân lý đạo đức là anh lầm. Thương mẹ là một vấn đề hưởng thụ. Mẹ như suối ngọt, như đường mía lau, như xôi nếp một. Anh không hưởng thụ thì uổng cho anh. Chị không hưởng thụ thì thiệt cho chị. Tôi chỉ cảnh cáo cho anh chị đừng có than thở rằng : “đời ta không còn gì cả.” Một món quà như mẹ mà còn không vừa ý thì hoạ chăng có làm Ngọc Hoàng Thượng Đế mới vừa ý, mới bằng lòng, mới sung sướng. Nhưng tôi biết Ngọc Hoàng không sung sướng đâu, bởi Ngọc Hoàng là đấng tự sinh, không bao giờ có diễm phúc có được một bà mẹ.Tôi kể chuyện này, anh đừng nói tôi khờ dại. Đáng lẻ chị tôi không nên đi lấy chồng, và tôi, tôi không nên đi tu mới phải. Chúng tôi bỏ mẹ mà đi, người thì theo cuộc đời mới bên cạnh người con trai thương yêu; người thì đi theo lý tưởng đạo đức mình say mê và tôn thờ. Ngày chị tôi đi lấy chồng, mẹ tôi lo lắng lăng xăng, không tỏ vẻ buồn bã chi. Nhưng đến khi chúng tôi ăn cơm trong phòng, ăn qua loa để đợi giờ rước dâu, thì mẹ tôi không nuốt được miếng nào. Mẹ nói : “mười tám năm trời nó ngồi ăn cơm với mình, bây giờ nó ăn bữa cuối cùng rồi thì nó sẽ đi ăn ở một nhà khác.” Chị tôi gục đầu xuống mâm cơm, khóc. Chị nói : “thôi con không lấy chồng nữa.” Nhưng rốt cuộc thì chị cũng đi lấy chồng. Còn tôi thì bỏ mẹ mà đi tu. Các ái từ sở thân, là lời khen ngợi người có chí xuất gia. Tôi không tự hào chi về lời khen đó cả. Tôi thương mẹ, nhưng tôi có lý tưởng, vì vậy phải xa mẹ. Thiệt thòi cho tôi, có thế thôi. Ở trên đời, có nhiều khi ta phải chọn lựa. Mà không có sự chọn lựa nào là không khổ đau. Anh không thể bắt cá hai tay. Chỉ khổ là vì muốn làm người nên anh phải khổ đau. Tôi không hối hận vì bỏ mẹ đi tu, nhưng tôi tiếc và thương cho tôi vô phúc thiệt thòi, nên không được hưởng thụ tất cả kho tàng quí báu đó. Mỗi buổi chiều lạy Phật, tôi cầu nguyện cho mẹ. Nhưng tôi không được ăn chuối ba hương, xôi nếp một và đường mía lau.Anh cũng đừng tưởng tôi khuyên anh: không nên đuổi theo sự nghiệp mà chỉ nên ở nhà với mẹ. Tôi đã nói là tôi không khuyên răn ai hết, tôi không giảng luân lý đạo đức rồi mà. Tôi chỉ nhắc anh : mẹ là chuối, là xôi, là đường, là mật, là ngọt ngào, là tình thương. Để anh đừng quên. Để chị đừng quên. Để em đừng quên. Quên là một lỗi lớn : Cũng phải là lỗi nữa, mà là một sự thiệt thòi. Mà tôi không muốn anh chị thiệt thòi, vô tình mà bị thiệt thòi, khờ dại mà bị thiệt thòi. Tôi xin cài vào túi áo một bông hoa hồng : để anh sung sướng , thế thôi.Nếu có khuyên, thì tôi sẽ khuyên anh như thế này. Chiều nay, khi đi học về, hoặc đi làm về, anh hãy vào phòng mẹ với một nụ cười thật trầm lặng và thật bền. Anh sẽ ngồi xuống bên mẹ. Sẽ bắt mẹ dừng kim chỉ, mà đừng nói năng chi. Rồi anh sẽ nhìn mẹ thật lâu, thật kỹ để trông thấy mẹ, và để biết rằng mẹ đang sống và đang ngồi bên anh. Cầm tay mẹ, anh sẽ hỏi một câu ngắn làm mẹ chú ý. Anh hỏi : “Mẹ ơi, mẹ có biết không ?” Mẹ sẽ hơi ngạc nhiên, và sẽ nhìn anh, vừa cười vừa hỏi : “biết gì?” Vẫn nhìn vào mắt mẹ, vẫn giữ nụ cười trầm lặng và bền, anh sẽ hỏi tiếp : “mẹ có biết là con thương mẹ không ?” Câu hỏi sẽ không cần được trả lời. Cho dù anh lớn ba bốn mươi tuổi, chị lớn ba bốn mươi tuổi thì cũng hỏi câu ấy. Bởi vì anh, bởi vì chị, bởi vì em đều là con của mẹ. Mẹ và anh sẽ sung sướng, sẽ được sống trong ý thức tình thương bất diệt . Và ngày mai, mẹ mất, anh sẽ không hối hận, đau lòng, tiếc rằng anh không có mẹ.Đó là điệp khúc tôi muốn ca hát cho anh nghe hôm nay. Và anh hãy ca, chị hãy ca, em hãy ca cho cuộc đời đừng chìm trong vô tâm, quên lãng. Đoá hoa màu hồng tôi cài trên áo anh rồi đó. Anh hãy sung sướng đi.

Thứ Bảy, 20 tháng 6, 2009

Nhà báo rong chơi


Du lịch bằng… xe báo
Ngày 14.6, sau khi tham gia đầy đủ các thể loại tại Hội thảo-Hội thao báo chí các tỉnh Tây Nguyên và Nam Trung bộ lần thứ I-2009 tại Gia Lai, thì Lê Hân (Trưởng VP Thanh Niên tại Đà Lạt) nhận điện thoại của Đình Phú từ Quy Nhơn: “Tranh thủ về Bình Định chơi đi!”. Chà, nghe hấp dẫn quá, nhưng đi xe nào đây cho nhanh và… lợi nhất để còn về làm việc? Thiên Trúc, thổ địa Gia Lai có ngay cao kiến: “Xe phát hành báo Thanh Niên!”; đây là xe đã chuyển báo từ Nhà in Bình Định lên lúc 4 giờ sáng và sẽ trở đầu lúc 16 giờ. Ô la, thế là Lê Hân cùng Gia Bình và Xuân Trung (PV Báo Lâm Đồng) từ Pleiku túc tắc một lèo theo QL 14 chỉ 2 hơn tiếng đồng hồ là đã… vào bàn với nhà báo Ngọc Toàn (Trưởng Văn phòng Thanh Niên tại Bình Định) lúc hoàng hôn vừa buông xuống xứ “đất võ trời văn”…
Đêm đó, Đình Phú trực văn phòng nên đăng ký hôm sau… hầu tiếp “đoàn du lịch”. Đang uống cà phê trong một cái quán cực kỳ dễ thương bên biển Quy Nhơn, cả nhóm nối liên lạc với đồng nghiệp Hùng Phiên ở Tuy Hoà-Phú Yên. Sau một hồi hội ý, tất cả thống nhất ngày 15.6 phải ở lại Quy Nhơn để Đình Phú “hướng dẫn viên” thăm Trại phong Quy Hoà, mộ Hàn Mạc Tử, Bãi tắm Hoàng hậu,… để đến chiều tối sẽ cùng xe báo Thanh Niên tuyến Quy Nhơn-Nha Trang ngang qua Tuy Hoà “bắt cóc” Hùng Phiên. Đây là xe chở ấn phẩm quảng cáo Thanh Niên từ Nhà in Bình Định vào Nha Trang rồi sáng sớm hôm sau chở báo ngược về Tuy Hoà.
Đến Nha Trang đã gần 23 giờ nhưng nhà báo Xuân Hoà (Trưởng VP Thanh Niên tại Nha Trang) đã sẵn sàng nghênh đón bằng… một chầu cháo gà. Dù anh em Nha Trang đã bố trí chỗ nghỉ nhưng chúng tôi quyết định “thức trọn đêm nay” để hàn huyên trò chuyện giữa phố biển Nha Trang. Mới 1 giờ sáng 16.6, anh Luân (nhân viên phát hành Thanh Niên của VP Nha Trang) đã đưa cho chúng tôi những tờ báo đầu tiên còn nóng hổi. Chứng kiến cảnh làm việc tấp nập xuyên đêm của công nhân Nhà in Khánh Hoà và là một trong những người đọc báo sớm nhất, những người làm báo chúng tôi lại thêm một lần nữa trân trọng cái nghề dầu dãi đêm thâu của các công đoạn một tờ nhật báo. Và rồi sau đó ít phút, chúng tôi lại lên một xe báo Thanh Niên khác để vòng qua Ninh Thuận rồi vi vu qua đèo Ngoạn Mục, đến Đà Lạt lúc 5 giờ sáng khi trời xứ Thơ còn trong sương trắng…
Tại đây, mấy anh em báo chí lại cùng đưa nhau dạo vòng Đà Lạt; sau đó là cuộc hàn huyên thắm thiết với các nhà báo, nghệ sĩ như MPK (nhiếp ảnh gia), Thanh Đạm (TBT Báo Lâm Đồng), Nguyễn Hàng Tình (PV Báo Tuổi Trẻ, Diệu Hiền (PV Báo Lâm Đồng),… để đến hơn 15 giờ cùng ngày tiễn Hùng Phiên lên xe báo về lại duyên hải…
Vậy là chỉ trong chưa đầy 3 ngày, chúng tôi đã có một tour du lịch “chất lượng cao” niếm trải nhiều không gian văn hoá, ẩm thực độc đáo và nhất là gặp gỡ những người đồng nghiệp đang tác nghiệp trên một vùng đất nước. Một chuyến du lịch thật lãng mạn, ấm áp tình nghề báo…
HÙNG PHIÊN (ghi)

Gặp gỡ tại Cà phê Tùng Đà Lạt sáng 16.6.2006 (ảnh: Xuân Trung)

Thứ Bảy, 30 tháng 5, 2009

Thơ Bùi Văn Thành

BÙI VĂN THÀNH

Về quê

Về quê mà chẳng thấy quê
Hương quê phơ phất tái tê nụ cười
Giọng quê sao cũng nhạt lời
Còn gì bám víu những người xa quê?

Xa quê đau đáu ngày về
Bể dâu sương khói bên bờ sóng sa
Vẳng nghe điệp khúc bài ca
Hồn quê một mảnh bay xa ngậm ngùi…



Giá như

Giá như không có chuyến phà
Thì ta với nẫu như là người dưng
Người ơi, giông gió khôn cùng
Đất trời bôn bả treo lưng chừng đời.



Nhớ Mẹ
Kính Tặng Mẹ

Mưa chiều hạt lại nặng hơn
Ngồi buồn trên đất Qui Nhơn nhớ nhà
Nhớ con nhớ vợ nhớ cha
Thẳm sâu in dáng mẹ già trông con
Nhớ chân mẹ bước mỏi mòn
Chắt chiu mắm muối nuôi con từng ngày
Nhớ mẹ những bữa sum vầy
Những câu chuyện kể, những ngày tuổi thơ
Nhớ mẹ lớp học i tờ
Dắt con đến lớp ngồi chờ đợi con
Nhớ mẹ từ thuở còn son
Đến giờ tóc bạc con còn ngây thơ
Mẹ mớm tôi những ước mơ
Cho tôi nghe thấu lời thơ quê mùa…

Qui Nhơn , ngày 19/5/2006


Ơn vợ
Tặng Vợ

Giữa thời cơ chế thị trường
Bài thơ phải cõng đồng lương mỏi mòn
Hai lăm năm, việc nước non
Tiền lương chỉ đủ một con học hành
Nhuận bút thì thật mỏng manh
Chắt chiu, gom góp để dành in thơ
Đêm về câu cá thả lờ
Kiếm thêm chút ít để mà nuôi thân
Còn bao lo nghĩ xa gần
Trút lên lưng vợ tảo tần nắng mưa
Nghĩa tình ngọn cỏ gió đùa
Dẫu bao năm tháng vẫn vừa hôm qua.

Thứ Năm, 21 tháng 5, 2009

Thơ một người Tuy An



THƠ BÙI VĂN THÀNH


Th s Bùi Văn Thành nguyên Hiệu trưởng trường THCS TRần Rịa. Hiện anh đang là phó phòng Giáo dục huyện Tuy An tỉnh Phú Yên. Làm công tác quản lí nhưng anh có lòng đam mê sáng tác và nghiên cứu văn học. Tác phẩm của anh được đăng nhiều trên các báo. Đào Đức Tuấn's Blog xin giới thiệu một số sáng tác mới của Bùi Văn Thành.



Tìm lời mẹ ru
I

Mỗi người có một tuổi thơ
Tuổi thơ tôi, tiếng ầu ơ mẹ hiền
Trò chơi chẳng tốn bạc tiền
Dán dìều, đẽo dụ, làm thuyền mo nang
Kèn dừa tự quấn kêu vang
Mùa hè bắt dế, thênh thang ngoài đồng
Tuổi thơ tôi gắn dòng sông
Thả lờ câu cá rô đồng chấm rau
Bài vở vẫn thuộc làu làu
Giờ sinh hoạt, nắm tay nhau vui cười
Tuổi thơ bám riết tuổi đời
Giữ cho hơi ấm sáng ngời tình quê
Thời gian cõng cả tuổi thơ
Cho tôi hiểu tiếng ầu ơ khóc cười…
II
Xa quê ngót nửa đời người

Trở về quê cũ tìm lời mẹ ru…
Mẹ già vào cõi thiên thu
Lời ru năm cũ vi vu võng nhà
Thoảng nghe trong gió lời ca
Tiếng ru của mẹ thiết tha ngọt ngào
Vẳng nghe tiếng ếch bờ ao
Lời ru của mẹ hoà vào tiếng ve…
Đêm trăng lóng lánh ngọn tre
Mẹ ru như gió mùa hè nam non
Con về tìm lại lối mòn
Tuổi ngày thơ ấy có còn hay không
Lặng im nghe tiếng cõi lòng
Lời ru của mẹ ẳm bồng à ơi…….




Giấc mơ thăm Thầy

Kính tặng thầy Chu Xuân Bình


Tôi có trăm ngàn giấc mơ
Nhưng giấc mơ đêm nay là giấc mơ đẹp thật
Tôi đến Nha Trang thăm thầy sau một ngày tất bật lo toan cho cuộc sống đời thường
Đường xa, đèo dốc gập ghềnh
Một vợ hai con trên một chiếc Hon Đa Đam cũ kĩ
Xe phải nghỉ nhiều nơi nhưng cuối cùng vẫn đến thăm thầy được
Không gặp thầy lại gặp vô số bạn bè ngày xưa cũ
Tuổi sinh viên sống lại dịu kì
Hàn huyên bạn bè chờ thầy mãi tới khuya
Vì điều kiện gia đình, tôi phải trở về ngay
Xe chạy như bay, với bao điều trăn trở
Không biết thầy mình giờ đã dạy về chưa
Giữa đường, trời bỗng đổ cơn mưa
Vợ lạnh, con run, đường đi lầy lội
Nhưng trong sâu thẳm lòng tôi, vẫn vui như ngày hội
Vì đã được thăm thầy, dù chỉ giấc mơ !

1995

Bùi Văn Thành
ĐC: Phòng giáo dục huyện Tuy An – Phú Yên
Email:

buivanthanhpgd@gmail.com
ĐT: 0982510564

Thứ Tư, 13 tháng 5, 2009

Đất Phú trời Yên


TẠP CHÍ ĐƯƠNG THỜI RA SỐ CHUYÊN ĐỀ “ĐẤT PHÚ TRỜI YÊN”
Thiết thực kỷ niệm 400 năm Phú Yên hình thành và phát triển (1611-2011), Tạp chí Đương Thời (NXB Phương Đông) đã ra mắt số chuyên đề “Đất Phú trời Yên” với nhiều bài viết phong phú, tư liệu độc đáo, trình bày hiện đại. Những người thực hiện số chuyên đề này cố gắng đem đến cho bạn đọc bức tranh toàn cảnh về sự độc đáo của đất và người nơi đây trong tiến trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cái mới mẻ, trinh nguyên của vùng đất Phú Yên đầy nắng vàng, cát trắng, biển xanh cùng những nét văn hoá thuần hậu đang hấp dẫn bàn chân du khách đến khám phá. Nhiều nhà đầu tư cũng đã chọn Phú Yên bởi những thế mạnh chưa khai thác hết, đặc biệt là vắng bóng sự quy hoạch-xây dựng tuỳ tiện như các vùng phát triển khác. Đương Thời hiện phát hành thông qua Công ty Trường Phát và hệ thống siêu thị Maximark. Ở Phú Yên, Đương Thời phát hành tại Nhà sách Thời Đại- 69 Phan Đình Phùng, TP Tuy Hoà, ĐT: 057.3 828 428.
Tin, ảnh HÙNG PHIÊN

Thứ Tư, 6 tháng 5, 2009

Mấy dòng tâm cảm


Góc trường, hai mươi năm…
ĐÀO ĐỨC TUẤN
Ngoảnh lại một cái, lứa học trò chúng tôi đã vào tuổi bốn mươi. Hai mươi năm ra trường, với sự nhiệt tình của các bạn học cũ, lứa học sinh trường chuyên Lê Quý Đôn-Nha Trang khoá 1986-1989 chúng tôi vừa có cuộc gặp mặt cảm động. Khoá này có 4 lớp chuyên (Anh, Văn, Lý Toán) nhưng chỉ duy nhất tôi theo nghề chữ, vậy là các bạn “chỉ thị” viết một cái gì đó cho ngày gặp gỡ…
Có thể nói trong mắt tất cả các học sinh, mái trường, thầy cô và bè bạn luôn là điều thiêng liêng nhất! 20 năm, đó là một nửa số tuổi của hầu hết khoá học sinh chúng tôi, quãng thời gian đủ làm nên một sự nghiệp hoặc cho một người sinh ra-trưởng thành một đời người! 20 năm càng nhiều ý nghĩa hơn với lớp người trẻ chúng tôi! 20 năm rời xa mái trường phổ thông Lê Quý Đôn bên bờ biển Nha Trang yêu kiều-lộng gió, chúng tôi đã bước vào các trường đào tạo chuyên ngành, rồi toả đi khắp nước, nhiều bạn đã ở nước ngoài. Mong thời gian dẫu lắm muộn phiền, chúng ta nhìn nhau vẫn tươi nguyên ánh mắt trong trẻo của 20 năm không hề tì vết. Cụ thể hơn một chút, đã là bạn học thì hãy luôn động viên, mong mỏi, hỗ trợ những điều tốt đẹp nhất cho nhau. Cụ thể hơn nữa, hãy chìa bàn tay khi bạn ta cần vịn, hãy là một đối tác vô tư trong làm ăn, trong cuộc sống. Bởi chúng ta đã sẵn có một mối liên kết không dễ tìm lại lần thứ 2 trong đời...
Trường Lê Quý Đôn-Nha Trang giờ đã chuyển địa điểm khác; may sao, địa điểm cũ giờ vẫn còn mấy cây xà cừ với vài dãy nhà nội trú – nơi chúng tôi từ các huyện của tỉnh Phú Khánh (cũ) tụ về ở-ăn-học. Vẫn còn đó tươi nguyên những hình dáng thầy cô, bạn bè một thuở; một thời kham khó nhưng trĩu nặng tình yêu trẻ tươi, nguyên lành cuộc sống. Gặp lại cảm xúc cũ, những gồng gánh chen đua 20 năm trời xây dựng sự nghiệp như nhẹ tênh trong gió biển Nha Trang, như cái chớp mắt của cô bạn học mà cậu trai thầm thương trộm nhớ dạo nào. Giờ ai cũng đã yên bề gia thất nhưng bạn tôi đã buộc lòng: “Dẫu có muộn màng, mình vẫn phải nói điều đã cất giấu 20 năm, mình… mến… bạn…”!!!
Đ.Đ.T

Thứ Ba, 10 tháng 3, 2009

Trích tiểu thuyết XÍCH QUỶ KHỞI NGUYÊN của Đinh Văn Hùng

HỒI 2:
Ngũ Lĩnh Kỳ Duyên

Trời xế chiều, hơi nóng vẫn còn hâm hấp, một đoàn khoảng trăm người, tất cả đều im lặng, nhắm thẳng hướng nam mà tiến. Toán người đi trước chân đất, đội ngũ chỉnh tề, nhưng ăn mặc tềnh toàng theo kiểu phu khuân vác. Đi giữa bao gồm kẻ xe, người ngựa, trang phục trưởng giả, giàu sang. Sau cùng là ba xe chất đầy hàng hoá, bên cạnh một nhóm người hộ tống. Từ trong cỗ xe song mã, một người vén rèm thò đầu ra ngoài hỏi người ngồi lưng ngựa đang sóng bước bên cạnh:
- Bàng Tháo này, từ đây đến biên giới đường sá là bao? Ta e đường xa, người ngựa mỏi mệt, mà trời sắp tối, liệu có tìm được chỗ nghỉ ngơi chăng?
- Bẩm bệ hạ…
- Suỵt…Bàng Tháo, Chúng ta là đoàn thương lái, ta là Vương Đại, nhị đệ tuyệt đối phải xưng hô đúng cách, không được quen miệng nói bừa.
Một chút lúng túng, người cưỡi ngựa trả lời
- B… Thưa… Thưa đại huynh, đây thuộc địa phận Giang Nam, chỉ khoảng hơn vài mươi dặm nữa là tới huyện Động Đình. Cần vượt qua cánh rừng trước mặt sẽ là nơi sầm uất, nghỉ ngơi cũng không muộn.
- Ừhm… Vậy đệ đốc thúc anh em nhanh chân một chút.
Bành Tháo thúc ngựa, vượt lên phía trước nói mấy lời gì không ai nghe rõ, sau đó tất cả toàn đoàn bỗng dưng tăng tốc nhanh hơn. Chẳng mấy chốc đoàn người xuyên vào cánh rừng rậm rạp. Đến một đoạn đường cây cao bóng mát, tiếng nước suối chảy rì rào. Người đi bên phải giục ngựa sấn lên nói với người ngồi trong xe song mã rằng:
- Thưa Vương đại huynh, nơi này mát mẻ, không khí trong lành lại có suối nước trong mát. Đệ nghĩ nên cho anh em dừng lại nghỉ ngơi đôi chút, tiện thể cho ngựa uống nước, ăn cỏ thiết nghĩ cũng chưa muộn.
Người ngồi trong xe suy nghĩ giây lát rồi nói:
- Lý Tam nói đúng đấy, được cứ quyết định như vậy!
Dứt lời, mệnh lệnh ngay tức khắc được truyền đi. Đoàn người rẽ sang phía bên phải tìm nơi có tiếng nước chảy phát ra. Đi được chưa đầy trăm trượng đã thấy con suối nước đổ ào ào, bọt tung trắng xoá. Bên cạnh con suối, dưới táng cây đại thụ trăm tuổi có một hàng quán dựng bằng cây và lá rừng, tuy không kiên cố, nhưng rất rộng rãi khang trang, người phục vụ khá đông, có đến hơn chục người. Sau khi ngắm trước nhìn sau, người họ Vương thắc mắc cùng những người đi bên cạnh:
- Này… các huynh đệ nghĩ xem, giữa chốn núi rừng hoang vắng, vì lẽ gì lại có một hàng quán khang trang, người phục vụ đông đúc thế này?
Lý Tam vội thưa:
- Thưa Vương huynh, nơi đây tuy giữa núi rừng, xa nơi cư dân sầm uất, nhưng đây lại là con đường độc đạo nối liền với huyện Động Đình dân cư đông đúc. Vì vậy mà những đoàn thương lái, khách bộ hành qua lại thường xuyên, hàng quán mọc nơi đây cũng là hợp lý.
Miệng nói, chân bước, giấy lát đoàn người đã đến trước cửa quán.
Người chủ quán tuổi trạc bốn mươi, vóc dáng lực lưỡng, nhanh nhẹn hoạt bát, thấy khách bước vào vội vàng vồn vã bước ra chào mời lia lịa:
- Mời… Mời quý khách cứ tự nhiên vào ăn uống nghỉ ngơi, chúng tôi phục vụ hết sức chu đáo. Nếu quý khách có nhu cầu nghỉ lại qua đêm thì chúng tôi cũng sẵng đủ chỗ cho tất cả quý khách.
Nói vừa dứt, không đợi khách trả lời, ông ta quay vào trong lớn tiếng hô hét người dưới quyền chuẩn bị tiếp đón. Nhóm người phục vụ trong nhà nhanh chóng kéo ghế, bưng nước mời khách, hỏi han thực đơn rôm rả. Một số người khác vồn vã chạy ra giật lấy giây cương, dắt ngựa đến nơi gốc cây rồi vội vàng lấy nước cho uống, ôm cỏ bỏ đầy máng ăn. Chỉ có người chủ quán là đứng cuối quầy hàng, mắt nhìn tất cả các nơi theo dõi. Thỉnh thoảng lại chỉ tay chỗ này chỗ khác la hét bằng giọng thổ ngữ, không ai nghe rõ.
Sau một lát, tiếng ồn ào náo nhiệt trong quán giảm dần, cả đoàn ai cũng tìm được chỗ ngồi tử tế. Kẻ trao đổi thực đơn, người lấy khăn lau mặt. Nhân viên phục vụ thì chạy hết bàn này sang bàn khác, thỉnh thoảng tay chân vụng về đá đổ chỏng gọng những chiếc ghế, miệng không ngớt xin lỗi, vâng vâng dạ dạ liên hồi.
Khoảng hơn một giờ sau tất cả bàn ăn đã được dọn lên tươm tất, mọi người cắm cuối ăn uống no nê. Bỗng nhiên bên ngoài ngựa hí vang lên mấy hồi và liền sau đó lần lượt từng con lăn đùng ra đất giãy giụa giây lát rồi nằm yên bất động. Cảm thấy có chuyện bất thường, Lý Tam nói với những người đang ngồi trong bàn:
- Các huynh đệ cứ ngồi đây, tôi ra xem có chuyện gì rồi sẽ vào ngay.
Nói vừa dứt lời Lý Tam vội vàng đứng dậy lại gần người chủ quán nói nhỏ mấy câu rồi cùng nhau ra thăm lũ ngựa. Vương Đại nhìn theo, thấy Lý Tam và chủ quán đến bên bầy ngựa chỉ chỏ nói những gì không ai nghe rõ. Sau đó cả hai cùng vào, Lý Tam nói to có ý định cho tất cả cùng nghe:
- Chẳng có việc gì quan trọng cả, có lẽ bọn ngựa đi đường xa bị đói khác, nay thấy thức ăn, nước uống đầy đủ chúng tham ăn bội thực nên có hai con đã ngã lăn ra chết. Số ngựa còn lại tôi đã cho dắt đi nơi khác nghỉ ngơi.
Vương Đại lo lắng hỏi:
- Liệu những con còn lại có được an toàn không?
Ngay lúc ấy, phía bàn bên cạnh có hai người trong đoàn kêu lên ú ớ mấy tiếng rồi ngã gục xuống bàn. Mọi người lo lắng chạy lại xem, thấy họ vẫn thở đều, nhưng lay gọi thế nào cũng không hay biết. Mọi người đang xôn xao nghi hoặc thì lại có thêm nhiều người nữa lần lượt rơi vào tình hình tương tự. Vương Đại đập bàn làm nước bay tung toé, đứng lên quát to:
- Chúng ta đã bị trúng độc rồi! Mau bắt hết bọn người trong quán này cho ta.
Vương Đại vừa ra lệnh xong, tất cả thảy đều đồng loạt đứng dậy, lấy khí giới cầm tay nhất loạt xông lên. Nhưng tất cả mọi người tay chân thảy đều run rãy, cơ hồ cầm không nổi khí giới, đao kiếm tự động vuột ra khỏi tay, rơi xuống đất lẻng xẻng. Liền sau đó hàng loạt người khuỵ xuống nằm la liệt trên mặt đất, như bãi chiến trường, trông thật thảm hại.
Tên chủ quán từ nãy đến giờ đứng khoanh tay đóng mặt lạnh không nói câu nào, bỗng nhiên cười một tràng ha hả tuyên bố:
- Tất cả chúng bay đều bị trúng độc dược của ta, chỉ cần vài giây nữa là biến thành những cái xác không hồn, đừng mong chạy thoát.
Dứt lời hắn phẩy tay một cái, tức thì bốn phía có đến hàng trăm lâu la cung tên sẵng sàng, chỉa thẳng vào những người còn tỉnh táo. Bàng Tháo mặt đỏ bừng bừng, rút kiếm toan đứng lên thì ngay lập tức bị Vương Đại nắm áo kéo ngồi trở lại:
- Hãy khoan, Lúc này không nên nóng nảy, từ từ tuỳ cơ mà ứng biến.
Bàng Tháo miễn cưỡng ngồi xuống, miệng lầm bầm chửi rủa:
- Đồ chó má, chúng mày biết bọn ta là ai không mà mà dám to gan đến vậy?
Tên chủ quán cười mỉa mai:
- Cho dầu chúng mày có là hổ dữ đi nữa thì giờ đây cũng đã bị nhốt trong lồng, muốn giữ mạng sống thì đừng khoác lác.
Dừng lại một chút hắn nói tiếp:
- Ai là Lý Tam sư huynh… Xin mời bước ra.
Nghe nhắc đến Lý Tam, mọi người ngạc nhiên đưa mắt nhìn, nhưng Lý Tam đã đi đâu mất tự lúc nào không ai hay biết.
- Có Lý Tam đây…
Mọi người nghe nói đưa mắt nhìn ra, thấy Lý Tam từ ngoài đang đi vào đứng cạnh tên chủ quán. Lý Tam cất tiếng:
- Muôn tâu bệ hạ, Lý Tam tôi từ lâu nay theo hầu bệ hạ, khổ cục trăm bề, khom lưng quỳ gối không phải vì chút bỗng lộc triều đình mà vì một nguyên nhân khác. Mục đích chính của thần là… cái đầu bệ hạ…
Lý Tam xưng hô tiếng “bệ hạ” không một chút cung kính, mà còn tỏ ra diễu cợt, nhạo báng. Hắn cười lên một tràng ha hả rồi nhìn về phía những tên lính đang ngã lăn quay dưới đất nói lớn:
- Các bằng hữu của ta mau bước ra ngoài, kẻo những mũi tên không có mắt.
Ngay tức thì, khoảng mười tên lính đang nằm lăn dưới đất bỗng nhiên mọc dậy, xách vũ khí bước ra ngoài mà không hề gặp ai cản trở. Vương Đại trợn mắt nhìn Lý Tam nạt:
- Ngươi dám làm phản ư?
Bành Tháo nói thêm:
- Từ trước đến nay hoàng thượng đối xử với ngươi thế nào? Sao nay bỗng nhiên ngươi lại có ý phản nghịch?
Lý Tam lại cười khẩy mà rằng:
- Đành rằng hắn đối xử với ta không tệ, nhưng nợ máu phải trả bằng máu là lẽ công bình.
Lý Tam bây giờ không còn xưng hô theo kiểu bề tôi, mà đã đổi kiểu xưng hô một cách đột ngột. Bàng Tháo lại cầm kiếm đứng lên và cũng bị nhà vua núi áo kéo ngồi xuống ghế. Nhà vua lại bình tĩnh hỏi Lý Tam:
- Nợ máu nào? Mang tội gì mà phải khép tội chết?
- Cha ta tên là Lý Chính, làm quan tri phủ, bị ngươi kết tội ăn tiền đút lót, thông đồng với đảng cướp. Việc ấy đúng sai lúc ấy ta còn nhỏ không thể hiểu được, nhưng nợ máu phải trả bằng máu…
Bàng Tháo nghe xong lớn tiếng nói:
- Cha ngươi hành động như vậy là vi phạm vào luật triều đình, mang tội chết là phải, ngươi còn mang oán hận trong lòng làm gì?
Nhà vua gật gù, lại hỏi:
- Vậy những người trong quán này cũng là một đảng cướp, ngươi đã thông đồng từ trước…?
- Không sai! Khi biết kế hoạch ngươi đi tuần thú phía nam, ta lập tức thông báo cho huynh đệ của ta ở tại núi này biết. Phần thưởng của họ chính là ba xe của cải kia, còn phần thưởng cho ta chính là cái đầu của Đế Minh hoàng đế nhà ngươi đấy.
Bàng Tháo chịu không nổi nữa, đứng lên quát to:
- Hỗn láo!
Và cũng như hai lần trước, vua Đế Minh lại phải kéo anh ta ngồi xuống. Nhà vua lại nói:
- Cứ cho là ngươi giết được ta đi, thì liệu nhà ngươi có thoát được mạng lưới của triều đình không? Ngươi đã tính toán kỹ chưa?
- Ha ha… Đã đến nước này ta cũng không còn gì để giấu ngươi nữa. Tất nhiên một kế hoạch mà ta đã dày công hai mươi năm ròng rã suy nghĩ ngày đêm thì hẳn nhiên câu hỏi của ngươi cũng đã có trong kế hoạch của ta rồi. Nói thật cho ngươi biết, triều đình bây giờ ta nghĩ cũng đã về tay người khác rồi. Trước khi đi chuyến này, mọi việc ta đã sắp xếp hết sức cẩn trọng cho một cuộc lật đổ thật gọn gàng, chỉ có điều nhà ngươi không hề hay biết mà thôi… Chuyến này ngươi có đường đi mà không có đường về.
Đế Minh nghe nói vậy, liền đập bàn quát lớn:
- Quân phản nghịch!
Lý Tam cười khảy lạnh lùng, quay sang tên chủ quán:
- Còn chần chờ gì nữa, mau bắt tất cả trói lại cho ta.
Tên chủ quán buông một tiếng cộc lốc:
- Được!
Ngay lập tức tên chủ quán tung ra một cước bất ngờ nhằm vào bụng Lý Tam. Lý Tam ôm bụng gập người, lập tức bị người chủ quán tung một thế võ dũng mãnh vô cùng, chỉ trong nháy mắt Lý Tam bị trói chặt như con gà. Hắn vừa rên vừa la:
- Ngươi… Ngươi làm cái giống gì vậy?
Mười tên lính lúc nãy bước ra từ nhóm người bị đầu độc cũng bị trói chặt, hết thảy đều lăn lóc dưới đất trố mắt chưa hết ngạc nhiên. Người chủ quán vẫy tay một cái, nói lớn:
- Người kia là đương kim hoàng thượng, các ngươi mau hạ vũ khí cùng ta chịu tội.
Bọn lâu la vứt hết cung tên, vũ khí đồng loạt quỳ mọp sát đất. Tên chủ quán vội vàng bước đến gần bàn nhà vua đang ngồi, sụp lạy mà rằng:
- Muôn tâu bệ hạ, thần đã làm bệ hạ một phen hoảng hốt, tội đáng muôn chết, mong bệ hạ thứ lỗi…
Nói xong người chủ quán cúi rạp người sát đất. Hành động thay đổi đột ngột đến mức kỳ quặc của hắn làm cho mọi người thảy đều ngạc nhiên vô cùng. Một lúc sau Đế Minh hỏi:
- Ngươi là ai? Hành động của ngươi làm ắc phải có lý do, ngươi hãy nói ra cho trẫm nghe.
- Tâu Bệ hạ, hạ thần tên là Phùng Nguyên, giữ chức quản binh dưới quyền của quan tri phủ Động Đình. Thiệt tình hạ thần chỉ làm theo mệnh lệnh của cấp trên, còn nội tình thế nào hạ thần không tường tận lắm…
Vừa nói tới đây, xảy thấy bên ngoài có người ăn mặc theo kiểu cách nhà quan vội vàng bước vào, đến trước nhà vua rồi sụp lạy mà rằng:
- Hạ thần Đinh Quang Nhật, là người được bổ nhiệm cai quản đất Động đình đã được hai năm. Người này - chỉ Phùng Nguyên - là người coi sóc việc binh của phủ Động Đình. Tất cả mọi việc xảy ra hôm nay thảy đều do hạ thần sắp đặt. Hạ thần dám cả gan mạo phạm làm bệ hạ bất an, tội đáng muôn chết.
Nhà vua lại hỏi:
- Vậy việc làm của khanh vừa rồi giải thích ra sao?
- Tâu bệ hạ, đó là việc bất đắc dĩ, thần bày ra để bảo vệ bệ hạ và vạch mặt tên Lý Tam phản nghịch. Câu chuyện còn dài, mong bệ hạ cho hạ thần được giải thích sau, nói ngay bây giờ sợ e bất tiện.
Nhà vua gật đầu, nói:
- Được!... Nhưng cả trăm quân sĩ đang bị trúng độc tại đây ngươi tính thế nào?
- Tâu bệ hạ, họ chỉ uống một loại thuốc mê tên là “Ngũ hương thảo”. Chỉ sau một giờ tất cả đều tỉnh lại, không hề hấn gì. Hạ thần buộc phải làm vậy để tên Lý Tam tin thật mà để lộ nguyên hình là tên phản nghịch.
Nhà vua nói:
- Thôi được, mọi việc sẽ bàn sau. Bây giờ khamh cho dọn dẹp và cứu chữa cho binh lính kia đã.
- Thần xin tuân mạng…
Đinh Quang Nhật vâng lệnh lui ra, điều khiển binh sĩ dọn dẹp trước sau. Tất cả quân binh uống phải thuốc mê đều được cho uống thuốc giải, giây lác tỉnh lại như thường. Công xiệc xong xuôi, trời cũng vừa chập tối, vua tôi đều phải ngủ lại qua đêm tại nơi quán trọ.
Trong lều tranh, đền đuốc sáng trưng chỉ có nhà vua và Bàng Tháo đang ngồi chuyện trò, bỗng có quân vào báo:
- Tâu bệ hạ, có quan phủ Đinh Quang Nhật xin được ra mắt.
- Cho vào.
Đinh Quang nhật bước vào quỳ lạy ra mắt xong, nhà vua chỉ ghế mời ngồi:
- Nơi chốn thâm sơn này không cần đa lễ, khang ngồi đây.
Đinh Quang Nhật tạ ơn ngồi xuống, nhà vua liền hỏi:
- Bây giờ khanh có thể kể cho trẫm mọi việc xảy ra được rồi.
Đinh Quang Nhật tuân lệnh, đằng hắng nhẹ nhàng, bắt đầu kể:
- Tâu bệ hạ, vùng núi non này thuộc địa phận Phủ Động Đình, trước khi hạ thần nhậm chức đã từng có một đảng cướp xưng là Hắc Hổ do tên Lý Hoạch cầm đầu. Bọn này thâu thập lâu la mỗi ngày một đông, thế lực ngày càng mạnh. Chúng rất táo tợn, cướp của, giết người, kể cả quan binh triều đình chúng cũng không tha. Các quan tiền nhiệm đã nhiều lần truy quét thảy đều thất bại, nhưng cũng làm cho chúng tổn thất không ít. Từ đấy chúng không còn tấn công vào quan binh nữa, mà tập trung vào những đoàn thương lái và khách bộ hành. Các quan phủ vùng này sau nhiều lần truy quét không thành nên đành phó mặc.
Cách đây vài năm, hạ thần về nhậm chức nơi này, thấy núi non hiểm trở nếu dùng binh ắc phải trả giá đắt. Hơn nữa, phần lớn lâu la của đảng cướp đều là dân lương thiện, vì mất mùa đói kém nên gia nhập đảng cướp làm kế sinh nhai bất đắc dĩ. Suy đi tính lại hạ thần bèn đem việc này bàn với phó quản binh thân tín của hạ thần tên là Mạnh Khôi. Mạnh Khôi đã dùng khổ nhục kế trà trộn được vào băng đảng Hắc Hổ. Sau một thời gian ngắn, nhờ có võ nghệ cao cường mà chủ tướng Lý Hoạch cất nhắc Mạnh Khôi lên làm phó tướng. Mạnh Khôi thường xuyên tìm cách liên lạc với hạ thần, nên tất cả mọi việc của băng cướp thần đều nắm rất rõ. Hạ thần định gặp thời cơ tốt thì sẽ ra tay.
Cách đây mười ngày, hạ thần đêm nằm mộng thấy một cô gái rất đẹp, nàng gặp hạ thần mà báo rằng:
- Mười ngày nữa, đương kim hoàng thượng sẽ đi ngang qua núi này và gặp nạn cướp giữa đường, ngươi hãy tìm cách mà cứu giá.
Nói xong người thiếu nữ biến mất. Thần nghĩ đó là một giất mơ nhảm nhí nên cũng không để ý. Không ngờ cách hai ngày sau giất mộng lại tái diễn như cũ, còn khẳng định rõ thêm đảng cướp ấy là Hắc Hổ.
Đúng vào lúc ấy thì hạ thần lại gặp Mạnh Khôi, được Mạnh Khôi cho biết Lý Tam đã tiết lộ kế hoạch tuần thú phía nam của bệ hạ. Hắn đề nghị đảng cướp xuất sơn, đánh cướp. Được bao nhiêu vàng bạc thì Lý Hoạch nhận đủ, chỉ cần giao bệ hạ cho hắn là được. Mạnh khôi còn cho biết Lý Tam có kế hoạch lật đổ triều đình. Hắn hứa rằng khi xong việc sẽ được thăng quan, thưởng lộc gấp bội.
Hạ thần cùng Mạnh Khôi bàn tính kế hoạch chi tiết, mọi việc diễn ra thành công như bệ hạ đã chứng kiến.
Đế Minh nghe tới đây, xen vào hỏi:
- Vậy tên tướng cướp Lý Hoạch ấy đâu, sao không thấy xuất hiện?
- Tâu bệ hạ, trước khi xuất quân Mạnh Khôi đã cố ý bỏ thuốc vào rượu của Lý Hoạch, nên hắn bị đau bụng dữ dội, đành phải giao quyền điều khiển toàn bộ đảng cướp cho Mạnh Khôi cầm đầu. Thế là toàn bộ đảng cướp đều bị hạ thần bắt gọn, không mất một mũi tên, không làm tổn thương một binh sĩ. Sau đó kế hoạch đón bắt bệ hạ vẫn được tiến hành đúng như Lý Hoạch đã bàn định. Chỉ có điều hạ thần đã thay thế toàn bộ lâu la bằng chính binh sĩ dưới quyền hạ thần. Nói tới đây Đinh Quang Nhất vội vàng quỳ xuống mà rằng:
- Hạ thần muốn vạch mặt Lý Tam, để hắn tự nguyện thừa nhận tội lỗi của mình nên đã xúc phạm đến bệ hạ. Hạ thần thật đáng tội chết…
- Không sao, không sao… Khanh không những đã không có tội mà biết tương kế tựu kế, lập được công to! Chỉ một mũi tên mà bắn trúng hai đích… Giỏi lắm! Giỏi lắm!
Vừa nói nhà vua vừa đỡ Quang Nhất dậy:
- Lúc chiều Lý Tam đã tự nói ra kế hoạch lật đổ ngay tại triều đình, không rõ hiện giờ ra sao. Thật tình trẫm còn áy náy.
Đinh Quang Nhất nói:
- Tâu bệ hạ, khi biết kế hoạch mưu phản của Lý Tam, thần đã cho bồ câu đưa thư kể tất cả sự việc cho quan nhiếp chính kịp thời. Nhờ vậy mà quan nhiếp chính đã tóm gọn bọn phản nghịch trước khi chúng kịp ra tay.
Vừa nói Đinh Quang Nhất móc trong túi ra một phong thư nhỏ xúi trình lên cho nhà vua xem và nói:
- Đây là thông tin phản hồi do bồ câu đưa thư, sau khi quan nhiếp chính đã bắt gọn bọn phản nghịch tại triều đình.
Đế Minh xem thư xong, vuốt râu, gật gù khen ngợi:
- Một tay khanh mà đã làm được bao nhiêu việc quan trọng như vậy, thật đáng khen lắm. Khi về cung trẫm sẽ hậu thưởng xứng đáng.
Nghe nhà vua không bắt tội mà con khen ngợi, Quang Nhất hớn hở vui mừng:
- Đội ơn bệ hạ! Thần có được chút ít công lao cũng nhờ vào công sức nhiều người, chứ một mình hạ thần thì chẳng làm gì được.
Đinh Quang Nhất thấy nhà vua khen ngợi mình mà không hề đề cập gì đến Bàng Tháo, bèn nói:
- Như Bàng tướng quân đây đứng trước rừng tên, biển giáo mà không hề xao động, khí phách anh hùng có thừa. Đinh Quang Nhất tôi nếu được kết bạn cùng tướng quân thì lấy làm vinh hạnh lắm.
Bàng Tháo nghe Quang Nhất nói vậy, liền bước đến ôm vai Quang Nhất cười ha hả nói:
- Tận mắt chứng kiến những gì huynh làm, Bàng Tháo tôi vô cùng cảm phục. Chưa được uống rượu với huynh đây chết không nhắm mắt.
Đế Minh nghe vậy lấy làm đắc ý:
- Anh hùng hào kiệt thì lúc nào cũng không thiếu, có chăng là thiếu người biết sử dụng anh hùng hào kiệt mà thôi.
Ba người nói chuyện hồi lâu Đinh Quang Nhất cáo từ lui về. Nhà vua cùng Bành Tháo tắt đèn lên giường đi ngủ. Đến gần nửa đêm, nhà vua vẫn còn chập chờn. Đang lúc nửa tỉnh, nửa mơ bỗng thấy một cô gái đẩy cửa bước vào, đứng bên cạnh giường nhà vua, vừa khóc vừa nói rằng:
- Muôn tâu bệ hạ, thiếp là một thần dân của bệ hạ. Thiếp chờ đợi bệ hạ đến đây đã lâu lắm rồi. Ngày nay được gặp, mong bệ hạ giúp cho một việc.
Đế Minh thấy người con gái ăn mặc giản dị, làm da trắng hồng, đôi môi mộng tựa trái chín, dáng người thon thả uyển chuyển thướt tha như cành liễu bên hồ. Có điều nhà vua không khỏi ngạc nhiên khi toàn thân nàng ướt sũng, tỏ ra lạnh lẽo vô cùng. Đế Minh hỏi:
- Ngươi đến đây gặp ta nhờ giúp đỡ điều gì? Tại sao nàng lại ướt sũng như vậy?
- Muôn tâu bệ hạ, thân hình thiếp ướt như vậy vì đã hai năm rồi phải nằm dưới nước, không được vớt lên bờ, phải chịu lạnh lẽo quanh năm. Thiếp đến đây nhờ vả bệ hạ cũng vì chuyện đó.
Nhà vua lại hỏi:
- Vậy thì ta giúp được gì cho nàng?
- Thiếp là một người con gái nhà nghèo, có chút nhan sắc, nên tiếng đồn bay xa, được nhiều người biết đến. Nhưng hồng nhan bạc phận, chưa kịp hưởng được lạc thú trần gian thì tai ương ập đến. Thiếp bị người ta bắt đi, hãm hiếp cho đến chết rồi đem xác dấu xuống hồ nước gần đây cho nên quanh năm phải chịu cảnh lạnh lẽo khổ sở như vầy.
- Người gây ra tội ác đó là ai, nàng nói ra, ta sẽ bắt trị tội, trả lại sự công bằng?
Người con gái ấy vừa khóc vừa nói:
- Tên gây ra tội ác ấy bệ hạ không trị tội hắn được đâu. Hắn chính là long cung thái tử. Việc ấy thổ địa, hà bá ở đây điều biết. Đó là tội lớn theo luật thiên đình, nên thổ địa, hà bá không dám tiếp nhận thi thể nạn nhân, e rằng sau này phải chịu lây trách nhiệm. Còn họ tố cáo thì sợ mích lòng thái tử. Vì vậy mà thể xác của thiếp vẫn còn tươi nguyên không hoà nhập được vào thuỷ thổ. Đó là lý do hồn thiếp không được siêu thoát, quanh năm lạnh lẽo ở chốn thâm sơn.
- Cuối cùng thì nàng cần ta giúp đỡ điều gì?
- Muôn tâu bệ hạ, thiếp xin được bệ hạ xuông chiếu chỉ, lệnh cho thổ địa cho phép thiếp có được nấm mồ nơi khô ráo ấm cúng là được, không mong gì hơn.
Nhà vua hỏi:
- Ta làm sao ra chiếu chỉ cho thổ địa được?
- Đất đai là của vua, núi rừng là của vua, sông hồ cũng là của vua. Bệ hạ ra chiếu chỉ, đốt đi, lấy tro hoà vào nước, rải trên đất ắc thổ địa sẽ tiếp chỉ mà thi hành. Xác thiếp nằm ở cuối con suối này, giấu trong hốc đá xin bệ hạ vì thương dân mà giúp đỡ thiếp.
Bên ngoài có tiêng gà gáy, nàng đó bỗng nhiên tan dần theo mây khói, đúng lúc nhà vua giật mình thức giấc. Đế Minh không ngủ được, ngồi dậy chong đèn chờ trời sáng. Tiếng gà gáy mỗi lúc càng nhiều…
Rạng ngày hôm sau, nhà vua còn đang vẩn vơ suy nghĩ về giất mơ đêm qua thì xảy có Đinh Quang Nhất xin vào vấn an ngọc thể. Đợi cho Quang Nhất ngồi vào vị trí, nhà vua hớp một ngụm nước trà rồi hỏi rằng:
- Người trong giất mơ mà khanh đã gặp trước đây có phải là cô gái tuổi độ hai mươi, vóc người thon thả, mắt phượng mày ngài, da trắng như ngọc, mặc bộ áo quần ướt sũng, luôn ca thán là bị lạnh lẽo phải không?
Quang Nhất tròn xoe đôi mắt, ấp úng như người mắc bệnh kinh phong:
- Tâu… đích thị rồi… Sao bệ hạ…?
- Đơn giản là trẫm cũng có giất mơ tương tự như khanh vậy.
Bàng Tháo lúc này không nén nổi tò mò vội xen vào:
- Tâu bệ hạ, thị gặp bệ hạ có báo mộng gì chăng?
- Tất nhiên là có. Trẫm phải ở lại đây thêm vài ngày nữa mới được. Mọi việc các khanh từ từ khắc biết.
Liền ngay sau đó Đế Minh cho lập bàn thờ, nhang khói hoa quả đầy đủ ngay gần con suối. Đích thân nhà vua khấn vái một hồi rồi sai hai mươi quân lặn giỏi, xuống suối tìm kiếm, sục sạo khắp nơi suốt cả canh giờ không tìm gặp thứ gì. Sau đó Đế Minh sai người đem bút mực, bèn thảo một tờ chiếu rằng:

Trẫm là Đế Minh đương kim hoàng đế
Giữa đường gặp chuyện trái ngang
Nay có chiếu chỉ cho thổ công, hà bá:
Người sống phải có nhà, có đất
kẻ chết phải có mồ, có mả
Trên theo ý trời
Dưới thuận đạo lý
Mọi điều oan khuất phải được tường minh
Khắp nơi sạch nỗi oán hờn ca thán
Chiếu đã ban ra, bất tuân phải tội

Chiếu viết xong, nhà vua tự tay đốt đi, hoà với nước rồi rắc đều trên đất.
Chỉ một lát sau quân sĩ đã vớt được xác chết một cô gái, tuổi trạc hai mươi, làn da còn tươi roi rói. Nhà vua liền ra lệnh cho quân sĩ chặt cây, làm thành một cái hòm độc mộc, cho xác cô gái vào trong, sau đó khiến quân sĩ đào huyệt chôn cất tử tế. Công việc xong xuôi, trời cũng vừa chập tối. Nhà vua đành ở lại chốn núi rừng thêm một đêm nữa.
Đêm ấy Đế Minh lại mơ thấy người con gái nọ đến cảm tạ, trước khi đi, nàng không quên nhắc nhở:
- Tâu bệ hạ, Linh hồn thiếp nay được thanh thản ra đi, không còn gì vướng bận. Nay việc oan khuất đã được đưa ra ánh sáng, thái tử Long Cung ắc chẳng vừa lòng. Thiếp mong bệ hạ cẩn thận đề phòng lòng dạ kẻ đen tối.
Nói xong nàng biến mất. Nhà vua tỉnh giất, tức giận hầm hầm:
- Trẫm là thiên tử, hà tất phải sợ kẻ tiểu nhân!
Nhà vua đập tay xuống giường đánh sầm một tiếng. Bàng Tháo đang ngủ, giật mình tỉnh giất, chẳng rõ đầu đuôi, nhảy xuống khỏi giường dập đầu lia lịa:
- Thần đáng tội chết… Thần đáng tội chết…
ĐINH VĂN HÙNG

Chủ Nhật, 1 tháng 3, 2009

Tản bút HẢI SƠN

BAO GIỜ HẾT NỢ ?

Năm nào cũng vậy , hễ chuẩn bị tết đến mọi thứ lo toan lại đè nặng . Bao thứ nợ trỗi dậy không tên, không giấy, hiển hiện chồng chất lên nhau không bao giờ trả hết. Nợ tiền, nợ bạc, nợ áo cơm cho con, gia đình, họ tộc . Nợ tình, nợ nghĩa bà con chòm xóm sớm hôm tối lửa tắt đèn , lúc sa cơ lỡ vận được họ chở che. Nợ bạn bè cưu mang , đùm bọc lúc mặn nhạt, đói lòng. Ta còn nợ những nhát cuốc đào, để cho mầm cây đâm chồi nẩy lộc. Nợ những người ngã xuống hôm qua, đổ cả máu xương cho hôm nay đất nước trọn vẹn tươi thắm nở hoa. Nợ người lính biên cương, hải đảo xa xôi ngày đêm canh giữ bẩu trời cho xóm làng yên bình, hạnh phúc…Cứ nghĩ đến những món nợ khổng lồ. Nợ ân tình, nợ người, nợ đất nước, nợ tổ quốc, họ không đòi nhưng lòng ta lại ray rứt, nhức nhối, bàng hoàng . Biết đến khi nào ta còn đủ sức để trả . Trả một lần, trả nhiều lần không xong . Thì ngày trả, tháng trả, năm trả , đời đời phải trả .Không trả hết, con ta, cháu chắt ta dứt khoát phải trả . Ta luôn khắc sâu tấm lòng ơn huệ của Đảng, nhà nước, của nhân dân. Tấm chân tình của người cho ta nợ triền miên, cho ta cơm no, áo mặt, được học hành, được việc làm cống hiến , được sức vẫy vùng, thoả chí tang bồng. Được đắm mình trong tổ quốc tự do thì dẫu cho món nợ kia trả mãi, trả mãi ta cũng cam lòng.Đất nước bình yên đã qua ba mươi ba năm thay đổi, trưởng thành. Ba ba mùa xuân đầy ắp niềm tin, nghị lực. Đầy ắp trăn trở, suy tư, thẳng tiến trên con đường phát triển . Những ai đang sống trong nhung lụa giàu sang, gia đình êm ấm , con cái đề huề, tộc gia bền vững , phải nhớ đến món nợ ân tình kia mà trả . Nợ nhiều trả nhiều, nợ ít trả ít. Đừng vong ơn bội nghĩa , chối bỏ đau thương, hào hùng của dân tộc, dẫm lên quá khứ, chà đạp lên công sức của biết bao thế hệ đã đem lại cho ta cuộc sống phồn vinh thịnh vượng , điều đó nó đồng nghĩa với sự phỉ báng chính mình, xúc phạm đến các anh linh đã hy sinh cho tổ quốc.Hãy nhận lấy trách nhiệm thiêng liêng và hành động bằng nghĩa cử cao đẹp đối với những gì ta đang nợ . Bất cứ nơi đâu khi nhân dân, tổ quốc cần, ta làm với việc làm thiết thực , vô tư, cởi mở thì lòng ta cũng vơi đi gánh nặng nợ nần , cho dù món nợ mãi mãi ăn sâu vào tiềm thức , không thể quên đi.Một mùa xuân nữa đã về xin cám ơn Đảng, Nhà nước, cám ơn nhân dân, cám ơn bè bạn, bà con xóm làng, gia đình họ tộc đã cho ta nợ món nợ ân tình . Dẫu biết rằng có trả mãi, trả mãi cũng không bao giờ hết ./.

(theo tranhaison1962.blogspot.com)

Thứ Bảy, 14 tháng 2, 2009

Anh Ba ơi hỡi anh Ba

Nắng lên...
Ngô Phan Lưu
Nhà thơ Xuân Quỳnh có viết: “Mùa Hè nắng ở nhà ta/ Mùa Đông nắng đi đâu mất?”. Câu hỏi thật cụ thể, và chính tác giả trả lời cũng thật tuyệt vời cụ thể: “Nắng ở xung quanh bình tích/ Ủ ấm nước chè cho Bà/ Bà nhấp một ngụm rồi khà/ Nắng trong nước chè chan chát/ Nắng vào quả cam nắng ngọt/ Trong suốt mùa Đông vườn em/ Nắng lặn vào trong mùi thơm/ Của trăm của ngàn hoa Cúc…”
Tôi muốn ngừng lại, nhưng thôi, để nhà thơ Xuân Quỳnh trả lời tiếp: “Nắng thương chúng em giá rét/ Nên nắng vào áo em đây/ Nắng làm chúng em ấm tay/ Mỗi lần chúng em nhúng nước/ Thế mà nắng cũng sợ rét/ Nắng chui vào chăn cùng em/ Các bạn để ý mà xem/ Trong chăn bao nhiêu là nắng/ Mà nắng cũng hay làm nũng/ Ở trong lòng Mẹ rất nhiều/ Mỗi lần ôm em Mẹ yêu/ Em thấy ấm ơi là ấm”.
Úi trời! Tưởng mùa Đông nắng đi đâu, té ra nắng lại trốn ở đấy. Trốn vào những chỗ thật gần gũi thân thương. Nhà thơ Xuân Quỳnh thật tài, còn tôi thì chịu chết, không bao giờ làm được bài thơ hay như thế. Tôi là dân “văn xuôi”, chổi cùn, rế rách, nồi niêu, quang gánh lúc nào cũng nặng vai kĩu kịt, thèm quá một chút ngây thơ như thế mà không được! Cảm ơn nhà thơ Xuân Quỳnh.
Ngày xưa, vào đời Tống bên Trung Quốc, có người nông dân cày ruộng vào mùa giá lạnh, bỗng nhiên mặt trời ló ra, rạng rỡ, chói chang. Anh ta mừng rỡ ngừng bò, lên bờ ngồi sưởi nắng. Anh ta đang cảm nhận mình ấm áp tuyệt vời…Lúc vợ xách cơm đến, anh ta phấn khởi bảo vợ rằng: “Nếu ta gói nắng này đem dâng vua, ắt sẽ được trọng thưởng”. Ôi, anh thợ cày chất phác, nghèo khổ cứ nghĩ vua cũng thiếu thốn, lạnh lẽo như mình, nên lấy việc sưởi nắng làm quí.
Nhưng điều đáng nói ở đây, không phải thế. Không phải nắng trời, mà là “nắng trong lòng” anh thợ cày nghèo khổ. Có “nắng ở trong lòng” mới nghĩ được đem nắng dâng vua chứ? Tặng phẩm tuy quá tầm thường, nhưng lòng hết sức thành kính, đôn hậu. Thử hỏi, làm vua mà được một người dân nghèo nghĩ đến, thương đến, sợ vua lạnh lẽo, thì còn món quà nào quí bằng? Còn tặng phẩm nào cao hơn?
Ở đây, anh nông dân đời Tống cũng thật cụ thể. Anh ta “gói nắng” mang đi. Nếu trong “chăn” có bao nhiêu là nắng, thì trong “gói” ấy nắng cũng nhiều không kém.
Nhớ lại, có thời tôi bị mắc bệnh sốt rét, cứ thích ra ngồi phơi ngoài nắng. Ngồi ngoài nắng để có nắng trong lòng mà bớt lạnh. Cứ ngồi giữa nắng hàng giờ như thế, người ấm dần trở lại. Những lúc ấy tôi chẳng nghĩ gì, mà để nắng nghĩ. Tuy rằng đang bệnh, nhưng những lúc ấy thật hạnh phúc.
Kỳ diệu thay, từ nắng vật lý hữu hình sang nắng tinh thần vô hình, dường như chẳng có biên giới ngăn cách. Đó là một vùng nắng mênh mông tràn ngập. Ở đó, nắng là sức nóng và ánh sáng.
Xin cảm ơn nhà thơ Xuân Quỳnh. Xin cảm ơn anh nông dân đời Tống. Và, xin cảm ơn cả tôi lúc tôi sốt rét

Thứ Năm, 12 tháng 2, 2009

Nổi máu buôn văn

THĂM NÚI ĐÊM NOEL

Tạp bút của Hoàng Lan

Mùa đông lạnh. Mười tám độ C đủ để diện áo len, áo gió đủ màu. Noel rộn rạo thiên hạ túa nhau về nhà thờ. Tôi ngược dòng tìm về thăm núi, sao lại thế?, thứ nhất tôi là người ngoại đạo, thứ hai bởi một cú điện thoại từ xa gọi về hỏi: Đường lên núi Nhạn có bao nhiêu bậc tam cấp?
Câu hỏi của em làm tôi mất ngủ, lên mạng nhấn từ khóa “Nhạn tháp” một trời thông tin nhưng chả có tin nào cho biết chuyện “tam cấp”, điện hỏi bạn bè kể cả những vị cao niên kết quả là “không biết, không rõ”.
Ừ! “Không biết, không rõ” thì ta tự thân đi đếm. Trời về khuya, đường phố vắng người, tất cả đều dồn về nơi chúa sinh ra đời, đường lên núi thênh thang chỉ mình ta với ta.
Bắt đầu đếm. Một….một trăm… Đúng một trăm sáu mươi sáu bậc tam cấp. Câu hỏi chưa bao giờ nghe ai hỏi của em đã rõ. Đứng dưới chân Tháp nhạn trơ trọi một mình với trời đêm lồng lộng. Giờ này em ở đâu? đang đi chơi hay đang vùi mình trong chăn ấm, tôi biết tính em mà, Hà nội năm nay lạnh hơn mọi năm, đời nào em chịu khó ra ngoài, với em Noel ở nhà thờ hay Noel trong nhà mình cũng là một, xưa nay tôi ít ưa người hà nội nhưng em là ngoại lệ, có cá tính mạnh, chẳng chịu nghe ai, tôi thích thế vô cùng.
Tôi điện thoại cho em, điệu quá em cài thánh ca làm nhạc nền, ngân nga mãi bài ca giáng sinh một hồi lâu mới bắt máy: Alô. Diệu Trang đây, xin lỗi ai thế ạ . Tiếng ạ rất đặc trưng của dân Hà nội gốc, nghe sao mềm mại lạ lùng.- Anh đây.- A..anh Tùng. Tiếng em mừng reo thánh thót.- Tìm được kết quả chưa?. Rồi.- Bao nhiêu? 166 bậc.- Chắc không?.- Tự anh đi đếm mà.- Cám ơn nhưng chưa tin lắm tuần sau em vào rồi tính sau.
Tuần sau. Diệu Trang bay vào thật, tôi và em lại đi đếm “tam cấp”. Núi nhạn về đêm khá lạnh nhưng không vắng lắm, lác đác vài cặp ôm dính sát vào nhau. Diệu Trang cười nháy mắt: Mùi chưa?.- Thì mình cũng vậy, có khác gì đâu?. Tôi ôm em chặt hơn. Bắt đầu đếm nhé. Diệu Trang lẩm bẩm: Một…hai..ba… đến thứ một trăm sáu mươi lăm….một trăm sáu mươi sáu chúng tôi có mặt dưới chân ngọn tháp.
Mồ hôi lấm tấm trên mặt, không còn cảm giác lạnh, trời khuya trở thành bạn bè, tôi và em lượn lờ viếng cảnh núi non. Trên cao nhìn xuống, phố đêm lung linh ánh đèn, dòng sông lượn lờ với những con đò đang ngủ, lòng người dễ trải bày hơn.
- Chỉ cần biết tháp nhạn có bao nhiêu bậc tam cấp mà em phải khổ như thế sao?
- Ủa. Anh định nghĩa thế nào là khổ, thế nào là sướng?
- Nhưng việc đếm bậc tam cấp của một ngọn tháp có cần lắm không?
- Có phải muốn đến được tháp chúng ta phải đi qua những bậc tam cấp này?
- Đúng,
- Vậy chúng ta cần phải biết con đường lên có bao nhiêu bậc.
- Để làm gì?
Diệu Trang nhìn tôi như nhìn sinh vật lạ: Thật tình là anh không biết?.- Không.- Thế cách đây một tuần anh đã đi đếm để làm gì?- Để trả lời câu hỏi của em.- Thế có bao giờ anh nghĩ rằng con số 166 bậc này minh chứng cho sự thành thật không?.- Thì lâu nay anh có dối trá bao giờ?.- Thôi ông tướng ơi, ở cách xa em gần cả ngàn cây số, xa mặt cách lòng làm sao biết được anh không này kia.- Nhưng anh này kia để làm gì? Em hỏi, anh đi đếm cho đúng rồi trả lời thế thôi.- Rất đơn giản.- Ừ rất đơn giản.- Và giả sử khi cùng đi đếm con số thực tế khác xa con số 166 thì anh nghĩ sao?.- Không nghĩ gì cả, chuyện đấy không thể xảy ra được, đơn giản là phải đi đếm và con số 166 xuất hiện. Nếu có con số nào khác ngoài 166 đấy là do chúng mình tự phức tạp hóa một điều đơn giản.
Diệu Trang mênh mang: Em chỉ cần có vậy, thực tế bao giờ cũng ở trong tầm tay, việc gì phải chạy theo những gì không có.- Ôi em lại triết lý vụn rồi.- Đàn bà mà anh, luôn có nhiều lo sợ vụn vặt, sợ giả dối, sợ sự hai lòng.- Thế thì giờ đây, với thời khắc này em sợ gì?.- Không sợ gì cả?.- Đúng, không việc gì phải sợ cả, yêu em anh tính đến chuyện trăm năm, sắp tới anh sẽ đưa bố mẹ ra Hà nội chính thức xin cưới em.- Sắp tới là khi nào?.- Đầu tháng sau. Diệu Trang nhìn tôi lom lom.- Bộ em không muốn à?- Không phải nhưng em thấy anh sao đơn giản quá.- Thì vừa rồi em bảo sống là phải thực tế.- Nhưng anh giải quyết vấn đề quá gọn gàng.- Chứ phức tạp ra để làm gì?- Em sợ sau này có nhiều điều xảy ra mà mình không bao giờ ngờ tới.- Ôi dào, nhân vô thập toàn cứ sống rồi hoàn thiện dần.
Đến lượt tôi trầm ngâm: Giả sử em là ngọn tháp, anh muốn đến với tháp buộc phải qua 166 bậc tam cấp này tuy vẫn có con đường khác bằng phẳng dể đi hơn, mau tới hơn nhưng anh không thích, anh vẫn muốn tự mình đếm từng bậc tam cấp để đến được với em, đến được với ngọn tháp này. Đấy là sự khẳng định, là sự chân thành.
Tôi và em ôm nhau cùng đi đếm đường lên tháp nhạn có bao nhiêu bậc? cùng đi và cùng đếm, 166 là 166. Vậy con số này, ngọn tháp này sẽ làm chứng cho những gì mà cả anh, cả em cùng muốn. Sau này lỡ có điều gì không hoàn thiện thì anh hoặc em, hoặc cả hai sẽ lên đây cầu nguyện. Rồi tất cả sẽ bình yên.

Thứ Bảy, 7 tháng 2, 2009

Viết cho anh Nguyên Đạt




Có một Trương Chi trên đỉnh núi Nhạn
Hội thơ Nguyên tiêu truyền thống núi Nhạn (Tuy Hòa, Phú Yên) vào Xuân Kỷ Sửu này là lần thứ 29. Ấn tượng của đêm thơ trên đỉnh núi Nhạn là có dáng hình hao gầy của nghệ sĩ sáo Nguyên Đạt; đôi khi anh nghiêng ngả thả hồn theo tiếng sáo thơ, quên bẵng là đang biểu diễn trước thiên hạ...
Trụ được nhờ “mối tình thứ hai”


Người truyền nghề thổi sáo cho Nguyên Đạt khi mới lên mười còn ở quê chính là ông nội, với mong mỏi đứa cháu “luôn giữ gìn cho tiếng sáo tinh sạch, thanh cao”. Từ đó, chiếc sáo trúc đã gắn bó vỗ về đời anh trên bước đường luân lạc. Năm 1968, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Quy Nhơn, Nguyên Đạt vào Phú Yên dạy học gần suốt 20 năm, nhưng rồi anh buộc phải từ giã bục giảng vì lý do không đủ tiêu chuẩn vào biên chế chính thức...! Nguyên Đạt tâm sự: “Bao nhiêu khát vọng cao đẹp với nghề “gõ đầu trẻ” bỗng chốc bị cắt ngang, làm mình như không còn trụ vững. May nhờ có “mối tình thứ hai” với nghệ thuật đã giúp mình tìm lại niềm vui cuộc sống”. Trong khốn khó, tiếng sáo và văn chương như được dịp bùng phát, dịu xoa niềm tiếc nuối của đời anh, nhất là những ngày thời bao cấp mà lại bị mất việc làm. Những năm 80 của thế kỷ trước, cả nhà anh phải tần tảo đủ nghề buôn thúng bán bưng, trong đó, “ông giáo bán trứng vịt lộn” đã được bà con xóm ga Tuy Hòa gắn cho anh hiện vẫn chưa trôi vào quên lãng. Anh làm thơ, viết truyện ngắn và tạp văn khá nhiều vào giai đoạn này nhưng nỗi nhớ nghề sáo và những đêm thơ thời sinh viên, đi dạy vẫn thao thức không nguôi. Nguyên Đạt kể: Một chiều ngồi bán trứng, chợt nghe loa truyền thanh phát chương trình thơ, thế là tiếng đàn tranh – sáo – thơ đã làm anh mất ngủ, ngồi bờ hè thổi sáo suốt đêm... Sáng mai, anh xách sáo đi tìm bạn.
Nguyên Đạt thổi sáo trong đêm thơ ở núi Nhạn
Và người đưa Nguyên Đạt đến với đêm thơ Nguyên tiêu Phú Yên là ông Dương Thái Nhơn (Giám đốc Thư viện Phú Yên) và nhà thơ Nguyễn Tường Văn (biên tập chương trình văn nghệ Đài Phát thanh Phú Yên). Ấy là năm 1989, khi Phú Yên vừa tách với Khánh Hòa, chương trình thơ của đài tỉnh đang thiếu những giọng ngâm và những người đệm thơ. Thế là “các nghệ sĩ” sáo trúc Nguyên Đạt, đàn bầu Mai Hoàng, đàn tranh Hoàng Hường, ngâm sĩ Ngọc Hà, Vân Phi, Bích Trâm,... đã có đất dụng võ. Nhưng có lẽ những đêm thơ Nguyên tiêu trên đỉnh núi Nhạn mới thực sự tỏa hết cái hồn của Nguyên Đạt với cây sáo trúc. Theo anh, đó là niềm cảm hứng cộng hưởng và giãi bày giữa những người đồng điệu, giữa đất trời thiêng liêng; đó mới là chỗ của sáo trúc, đó mới là chỗ của thơ, thơ và sáo đã dìu nhau, làm đẹp cho nhau qua bước đường hạnh ngộ...

“Lên bờ, xuống ruộng” vì sáo

Mỗi độ xuân về, nghệ sĩ sáo Nguyên Đạt đã phải “chạy sô” không ngớt, đêm nay ở Sơn Hòa, đêm mai đã Sông Cầu, đêm mốt đã Đồng Xuân, rồi khép lại mùa thơ xuân bằng Nguyên tiêu Nhạn tháp. Những đêm thơ này không có cát-sê, đôi lúc chỉ vài chén rượu cảm tạ,...
Nghệ sĩ sáo Nguyên Đạt
Còn chuyện buồn nghề thổi sáo cho những đêm thơ, chuyện ứng xử “khó coi” của nhiều người đối với thơ-nhạc,... Nguyên Đạt xin tôi đừng nhắc, “âu cũng là cái nghiệp cầm ca...”, anh âm trầm. Nhiều lúc buồn, anh đã định đập sáo, nghỉ chơi nhưng rồi làm sao cưỡng lại nghiệp trời? Trò chuyện cùng tôi, anh nhắc nhiều đến người bạn cố tri Nguyễn Văn Phương (Phương xích lô) với những câu thơ tặng trước khi mất: “Người thơ tìm về núi Nhạn/Để như chim nhạn tìm thơ/Tháp Chàm hóa thành tổ cũ/Khói hương tỏa ấm hồn thơ”...
Và rồi ba thập niên thơ trên đỉnh núi Nhạn, có còn ai nhớ tiếng sáo của chàng “Trương Chi” Nguyên Đạt, người làm đẹp cho thơ, cho bạn bầu thi hữu, khách tri âm giữa đất Phú trời Yên lồng lộng gió sông Ba,...
Bài và ảnh: HOÀNG YẾN
(Người Lao Động CT, 8.2.09)

Thứ Sáu, 6 tháng 2, 2009

Tiến tới kỷ niệm 20 năm Trường Lê Quý Đôn (Nha Trang)

Trường Cũ Tình Xưa
Sáng tác: Duy Khánh

Hôm nay tôi trở về thăm trường cũ
Nhiều nét đổ thay tường mái rêu mờ
Bên hiên hằng giờ tìm những bạn xưa
May ra có còn đôi đứa vẫn yên vui sống đời học trò.


Bâng khuâng đợi chờ người sao chẳng đến?

Hỏi lá hỏi hoa chỉ thấy im lìm
Cây dương đầu trường còn khắc hàng tên
Hoa leo phũ phàng đan kín
Tiếng ve ru nghe gợi buồn thêm.

Bạn cũ xa rồi, có người về đất buôn xuôi

Năm ba đứa bạt phương trời
Hai thằng chờ đầu quân năm tới
Ve ơi, hát gì điệu nhạc lâm ly

Khóc người biền biệt sơn khê
Cố nhân đi bao giờ mới về?

Hôm nay trở lại nhiều khuôn mặt mới
Thầy đó trường đây bạn hữu đâu rồi?
Bao nhiêu kỷ niệm hoa bướm ngày thơ
Vang trong nỗi niềm nhung nhớ
Có ai đi thương về trường xưa

Chủ Nhật, 1 tháng 2, 2009

Cụ Bùi tức cảnh

BỖNG DƯNG MUỐN BỨNG

Chà! Resort ta vẫn còn thiêu thiếu
Thiếu gì ta? À! Một mớ cây xanh!
Nhưng lấy đâu ra, cây đủ lá đủ cành?
Để đem về, trồng cho mau thấy!

A! Ta nhớ ra rồi! Trên đường Trần Phú
Toàn những cây bàng biển xanh tươi.
Nó tạo cảnh quan là nhứt xứ rồi
Nhắc tới đó, ta bỗng dưng muốn bứng!

Nhưng thưa bà: Bứng chui là phạm luật
Luật con khỉ gì? Luật trong túi ta đây.
Ta đã nói, ắt phải làm ngay!
Thế mới xứng doanh nhân số dách!

Tụi bay đâu? Lên đường đi đào gốc!
Đánh trận này, phải xong trước bình minh.
Thấy ta chỉ huy, tụi nó ắt làm thinh
Thành phố của ta! Ai còn hó hé?

Ôi thôi!
Còn đâu những buổi trưa hè
Tiếng chim ríu rít, tiếng ve gọi sầu.
Thương thay một quãng đường xanh
Giờ còn trơ trọi mấy cành cây con.
Hỡi đâu phép nước kỷ cương?
Mũi tên công lý hãy giương lên nào.
Để dân còn thấy tự hào.

Saigon, ngày 02/02/2009
BÙI VĂN TUẤN

Thứ Bảy, 31 tháng 1, 2009

Phú Yên thi thơ

KẾT QUẢ GIẢI THƯỞNG THƠ PHÚ YÊN 2008
Hội LH VHNT Phú Yên và Hội Cựu học sinh trung học Phú Yên đã công bố kết quả chấm giải Cuộc thi Thơ Phú Yên năm 2008. Giải nhất là bài thơ “Vọng làng” của tác giả Đào Tấn Trực; 2 giải nhì là “Gồng gánh” của Hà Kiều My và “Kỳ thạch” của Ma Dzoan; 3 giải ba là “Miền Trung” của Đào Đức Tuấn, “Trên đồng” của Nguyễn Văn Học và “Nhớ gió” của Lê Đình Hiệp; thơ của các tác giả Lê Anh, Đặng Văn Thơm, Hoài Niệm, Hoàng Ngọc Anh và Trần Văn Lan được trao giải khuyến khích. Tuyển tập các bài thơ chung khảo cuộc thi đã in xong và Lễ trao giải được tổ chức vào Đêm thơ Nguyên tiêu Kỷ Sửu núi Nhạn 2009.



VỌNG LÀNG

Có đi về phía con đường
Mới xa xóm vắng, mới thương quê nghèo
Ngày đi câu hát đi theo
Thị thành mơ mảnh trăng treo vườn nhà
.
Mười bảy tuổi tạm cách xa
Em toan tính chuyện bước qua lời nguyền
Đất nồng còn một chút duyên
Buộc quê với phố, buộc thuyền với sông
Buộc tôi với luống cải ngồng
Bãi bồi ai đắp cho đồng phù sa
.
Nằm nghe con sóng quê nhà
Một vùng ký ức khói là là bay
Trăng nghiêng xuống ngọn tre gầy
Rạ rơm sương khói nguyện đầy lời ru
.
Mẹ già đã hóa mùa thu
Câu ca dao cũ hình như lỡ làng
Huơ bàn tay gọi đò sang
Chở tôi về dưới cổng làng ngày xưa…


ĐÀO TẤN TRỰC


Gồng gánh

Gầy đôi vai
Mẹ gánh đêm quàng qua từng phố nhỏ
Những con dốc thoai thoải dài
Sợ mẹ “mềm chân”…

Người mẹ gánh gồng cuộc mưu sinh
Lang thang trên từng hẻm vắng
Con phố ngoái đầu theo bóng mẹ
Hun hút…

Thời gian như thấy mình có tội
Thêm nhọc nhằn mái đầu bạc phơ
Con chữ đêm qua lại cựa mình trong giấc mơ của mẹ
Những đứa con điện về, xin tiền, đi học
Mẹ gánh lam lũ đi trên đôi vai nhấp nhô hình núi
Cõng cuộc đời đi về phía xa xôi
Bôn ba vượt nghèo
Đi tìm con chữ
Cái nắng óng vàng chiếc áo cũ sờn vai
Lấp lánh…


HÀ KIỀU MY




KỲ THẠCH

Tặng em chuỗi kỳ thạch

Ta vừa tìm được dưới lòng sâu
Chiều trên sông Ba Hạ
Em khỏa thân - con nước hóa nhiệm màu
.
Hay là triệu năm trước
Thần thánh giao hoan chốn này
Vì thích chơi trò tóe nước
Bèn khơi mạch dòng Ba
Đừa tắm thỏa thuê
Rồi vội vã về trời
Quên xóa dấu dòng sông lẫn ngọc ngà trang sức…
.
Hay vũ trụ giao hoan
Trong tình cờ khoảnh khắc
Ánh sắc mặt trời
Soi vào cốt hồn đôi mắt
Chạm vào tinh vân đá cát
Tan vào huyền xanh dòng trôi
Lắng thành diệu chất
Kết thành kỳ thạch
Tạc nên báu vật
Em…


Chiều trên sông Ba Hạ
Hoàng hôn nhũ buông
Chợt đất trời phát quang
- Kỳ thạch
- Em
- Dòng sông
Hay lưới điện hòa nguồn ?…


MA JOAN





Miền Trung

Lòng rao rát miền Trung nhuần hậu
miền Trung xa xăm ngun ngút khô cằn
thương cái rám nắng màu mây nhạt
câu thơ quắt queo không dịu tháng năm.

Miền Trung trong tôi tảo tần dáng mẹ
mẹ gũi gần, mẹ thăm thẳm bao dung
con rong rủi một đời mang nợ
lặng thầm triền mắt mẹ minh mông.

Và lẽ nào em cát gió mung lung
heo hút hồn tôi dặm dài nhung nhớ
em ban mai, em trưa hè nắng đỏ
chiều thời gian con sóng biển lặng nồng.

Miền Trung miên man, miền Trung thênh thang
lời nào thiêng liêng một rời hai gánh
quê hương đầy tim, quê hương tròn mắt
ký ức long long, ký ức ầu ơ…

ĐÀO ĐỨC TUẤN

Yêu cho chết...

HƯƠNG SẮC TÌNH YÊU
(ĐÀO TẤN TRỰC)
Em mang theo chiếc chuông gió từ bắc miền trung vào trong này thăm tôi. Trời ra giêng rồi nhưng thời tiết vẫn còn lạnh buốt thịt da. Tôi đón em ở sân ga lúc chiều.Theo thói quen, em vẫn mang theo áo ấm bên mình. Sân ga lúc này đông người, mỗi người một màu áo như đàn bướm khoe sắc trong mùa xuân. Chúng tôi kịp nhận ra nhau và cùng nắm tay đi về phía trước.
Ngắm nhìn thị xã lần đầu, em như có chút gì đó ngớ ngẩn, ngạc nhiên trong trí mườn tượng của mình. “Không như lời anh kể rồi.” Tôi biết thế nên đánh thẳng vào ngang dòng suy nghĩ non nớt của em “thất vọng rồi chứ gì.” Em cười giả vờ đồng tình và em cũng cười như thông cảm.
Em biết tôi học văn, có làm thơ, viết văn nên trong từng lời nói như có chút gì đó rất chân thành và tô điểm nên em cũng dễ dàng thông cảm và sẻ chia. Em cũng biết rằng tôi là một người ăn nói không hay nhưng kì lạ thay, trước em tôi như một nhà ảo thuật ngôn từ, lời nói của tôi với em như có bỏ thuốc lú bùa mê. Chính vì thế mà nhiều lần em cứ gõ vào trán tôi rồi bảo “xạo, người gì mà nói như thật.”
Ba ngày, thị xã nhỏ. Những con đường cũng trở nên quanh co và hẹp hơn ngày thường. Tôi chở em nhiều lần vòng quanh như ma dẫn. Từng con hẻm quen thuộc bây giờ trở nên xôn xao, rộn ràng âm vang phố thị. Ngồi sau xe, thi thoảng em vỗ vào lưng tôi hỏi rằng:
-Răng mà cái dốc ni cao rứa, anh đạp xe có mệt không?
-Không mệt vì có em tíu tít ở sau
-Phố chi mà có ruộng
- Phố còn nghèo nên phải làm ruộng để có lúa gạo ăn
- Con chi đứng ngoaì ruộng kia mà nhiều
-Con cò đó, em biết không…
Em hỏi đủ điều. Tôi vừa đạp xe vừa giải thích cho em như một chuyên gia nhà nông làm hướng dẫn viên du lịch bất đắc dĩ. Rồi có lần em trố mắt ngạc nhiên không hiểu một tí tẹo nào khi nghe giọng nẫu rặt quê tôi như lần đầu tiên tôi ra quê em nghe mẹ em hỏi rằng: “Ôn mệ mi làm chi”…
Quen rồi, em nghe được giọng nói, nhìn thấy thị xã đáng yêu, thân quen với những hàng cây là bạn đồng hành trong cảm nhận suy nghĩ trí nhớ của tôi từ lúc ấu thơ. Buổi chiều núi Nhạn mùa xuân có gió biển Tuy Hoà thổi ngược nghe miên man khó tả. Em đến bên chân tháp, áp tai vào nghe những thanh âm rì rào từ gió như trùng dương dậy sóng. Từng viên gạch đỏ hồng không bao giờ rong rêu bám lấy sừng sững chọc toà tháp cổ giữa trời quay mặt về bốn phía cao vút như cột cờ để con người đứng bất cứ nơi đâu trong thị xã cũng dễ dàng nhìn thấy.
Nếu như quê em có núi Ngự sông Hương thì quê tôi có núi Nhạn sông Ba. Phố Huế có cầu Tràng Tiền dài sáu vại mười hai nhịp đêm về thắp đèn bảy màu mê lòng du khách thì Tuy Hoà có cầu Đà Răng- một cây cầu dài nhất miền trung đón người ra bắc vào nam; Huế có đồi Vọng Cảnh, Tuy Hoà có Chóp Chài… Tất cả đều không giống nhau như một định lí nhưng cũng có những nét tương đồng như tôi và em, hai con người vốn sinh ra từ hai vùng đất, gặp, quen rồi yêu nhau.
Nhớ khi còn là sinh viên, mỗi chiều cuối tuần hai đứa cùng rủ nhau lên đồi Vọng Cảnh lúc chiều buông ngắm dòng sông Hương bắt đầu mơ màng vào đêm. Sông Hương như một nàng thiếu nữ nằm nghiêng mình đầu gối lên thượng nguồn Trường Sơn rộng lớn đôi chân ngà ngọc dũi về cửa biển Thuận An trùng khơi sóng dữ. Sông Hương thơ mộng mơ màng du khách không giống như dòng sông Ba quê tôi lượn khúc quanh co bám víu với dân làng cực nhọc. Đồi Vọng Cảnh dập dìu du khách nay chuẩn bị đón nhiều dự án du lịch tầm cỡ quốc gia không giống như Chóp Chài quê tôi ngửa mặt về biển đông ôm chầm che chở cho thị xã nghèo chỉ có lụt lội và nắng gió…
Ba ngày, em trở về. Thị xã vẫn ngút ngàn lạnh và gió. Trong chuyến tàu ngược ra phương bắc hôm đó em có mang chút thổ ngữ khô cằn của quê tôi về thả xuống nước dòng Hương trong vắt mịn màng để trung hoà hai vùng đất nuôi dưỡng hai con người khác nhau. Em đi để lại chiếc chuông gió làm quà. Em bảo tôi rằng: Sôcôla chóng mất, chiếc chuông gió này sẽ còn mãi mãi nếu như anh biết giữ gìn, mỗi lần chuông kêu chúng mình sẽ nhớ về nhau thật nhiều.
Quả thực, chuông gió giữa phòng tôi em treo lúc nào cũng chuyển động leng keng. Mỗi lần có cơn gió đi qua chúng xôn xao như một bản hoà tấu tình yêu không lời đau đáu trong tim. Chúng luôn luôn chuyển động, luôn luôn hồi hộp như hai trái tim của hai người đang yêu.
Sáng nay trời lành lạnh, có cơn gió ùa vào làm chuông gió leng keng. Mùa xuân tràn ngập căn phòng. Vì điều kiện tôi và em không gần nhau được nhưng hương sắc của ngày lễ tình yêu vẫn còn nguyên vẹn, tinh khôi.

Thứ Sáu, 30 tháng 1, 2009

Bi Bi đi qua tôi...





Tiễn đưa con Bi Bi


(ĐÀO ĐỨC TUẤN)

Vậy là thêm một con chó đi qua đời tôi! Chẳng nhớ đây là con chó thứ mấy tự tay tôi chăm sóc. Chỉ nhớ chính xác từ khi tôi ra trường đi làm Nhà nước, đây là con chó thứ 3 nhà tôi nuôi. “Nhà tôi” ở đây là “một mình tôi” đưa về, vỗ về, cho ăn, nuôi nấng,…
Con thứ nhất là Bi Bi lông trắng, hồi độc thân ở 17 Phan Đình Phùng-Tuy Hoà. Nuôi đâu được vài tháng, nó cắn đứt cái giường xếp, rồi một ngày nó vĩnh viễn ra đi theo bọn thịt cầy; nó còn nhỏ lắm, chưa đạt độ… tơ!
Con thứ hai là khi tôi đã có vợ và xây nhà riêng; con này cũng lông trắng, dễ thương vô cùng; nói chung, chó là vậy! Thế nhưng, khác lần trước, lần này tôi nuôi chó có sự chứng giám của vợ. Con chó này là giống ta (nghĩa là không phải Tây), đã bước vào tuổi thiếu niên, phá phách vô cùng tận; ăn ỉa, bới móc lung tung, khó bề dạy bảo. Khi thằng cột chèo có ý xin, tôi đành rứt ruột chia tay; vậy mà nghe đâu vài tháng, con chó tôi cho (vẫn đặt tên Bi Bi) lại bị bọn trộm bắt… chắc lại vào một quán nào đó… chấm mắm tôm! Mẹ kiếp!
Lần này, đây như đầu năm 2008, đến nay đã tròn năm, thằng em rễ từ Tuy An đưa vào một chú Bi Bi lông đen, nửa Tây nửa ta, nửa quý tộc, nửa bụi đời. Nhìn dáng tôi đã chấm “được”, dễ thương vô cùng. Dẫu những ngày đầu cũng ỉa bậy, đi đứng mất quan điểm lập trường, vợ tôi chẳng thích lắm, nhất là cái đoạn mất vệ sinh. Thế nhưng lâu dần cô ả cũng vô cùng yêu quý thằng Bi Bi, nhất là con gái tôi (Hoàng Yến) đã coi Bi Bi là em kết nghĩa! Thậm chí vừa rồi, khi mẹ sinh thằng em, Hoàng Yến đã “thương em bằng Bi Bi”…
Bi Bi bệnh chỉ hơn 1 ngày rồi ra đi, tôi đã chạy vạy thuốc thang đến tận cán bộ Chi cục Thú y Phú Yên; thế mà không qua khỏi! Hơn 1 ngày, Bi Bi đi đứng não nùng, ốm tọp hẳn, dẫu cả nhà bưng bê kê rót từ sữa đến thịt thà, canh, trứng,… Nó đi lững thững, nằm rúc vào các bụi cây, miệng nhiễu nước bọt,… Chiều nay, tôi tính đi nhậu với mấy trí thức-văn nghệ sĩ về rồi đưa đi chích thuốc tiếp; đang dỡ cuộc nhậu, nhận điện thoại “Bi Bi nặng lắm rồi”!
Khi tôi về, Bi Bi đã nằm thanh thản trước hiên nhà… Thôi, chia tay hoàng hôn, cũng là một kiếp sinh linh! Tôi và Hoàng Yến đưa Bi Bi ra sân lớn để mai táng cẩn thận… Nếu tao có gì sơ xuất, xin mày niệm tình thứ lỗi. Vĩnh biệt Bi Bi, âu đành “sinh, lão, bệnh tử”…
Ăn xong Tết Kỷ Sửu rồi…


Đêm mùng Năm Kỷ Sửu 2009

Thứ Năm, 29 tháng 1, 2009

Thơ ông Năm

BẰNG TÍN


Ghi ở Hà Nội chiều cuối đông

Trời Hà Nội mấy hôm rày rét đậm
Đào Nhật Tân còn chúm nụ chờ Xuân
Phố chợ đã dập dìu người mua sắp
Ờ, cả năm chỉ Tết một lần!

Chùa Một Cột đài sen vẫn nở
Nghìn năm xưa cho đến bây giờ
Người xưa gửi tin yêu vào lớp trẻ
Đóa sen hồng thơm ngát giữa bùn nhơ.

Ngọn Tháp Bút viêt lên trời: Hạnh phúc
Ước mơ xưa, hoài bão hôm nay
Thêm khéo bàn tay, thêm giàu trí óc
“Trái tim hồng” vút dáng rồng bay.

Trời Hà Nội mấy hôm rày rét đậm
Giường anh nằm đủ nệm xốp, chăn len
Lòng anh vẫn khát khao hơi ấm
Nồng nàn ngọn lửa trái tim em.

Thứ Tư, 28 tháng 1, 2009

Nổ quê





Phú Yên: Dân lao động "thắng" Tết
25/01/2009 16:01
Một điểm nấu bánh tét-bánh chưng để bán ở Tuy Hòa
(TNO) Phải đến cạn ngày tất niên Mậu Tý, ông Trần Ngọc Thơ (tự Bảy Thơ, 54 tuổi), một nông dân trồng hoa ở làng Ninh Tịnh, P.9, TP Tuy Hòa (Phú Yên) mới thở phào khoan khoái: “Thắng, thắng lớn! Mưa gió dập vùi, tưởng vụ cúc năm nay “đi đứt”, vậy mà được hoa, được giá. Có hậu, có hậu!".
Vụ cúc pha lê cho Tết này, ông Bảy Thơ “đánh” trên 500 chậu. Chỉ thuộc hàng nhà vườn trung bình ở Phú Yên, nên với ông đây là “canh bạc” lớn. Mọi năm, nhà ông chỉ “chơi” khoảng 200 chậu cúc và 100 chậu thược dược nhưng “Ế tàn ế mạt, tới gần giao thừa, tôi tức quá đập một mớ chậu, vợ con cản nên mới trút bỏ hoa, thu hồi về ít chậu. Chớ chú thấy vầy sao không tức: đầu tư bình quân phải gần 30.000 đồng mới trồng được chậu hoa, vậy mà khách hàng chỉ trả giá từ 20.000 đồng/chậu trở xuống!”.
Riêng vụ hoa Tết Kỷ Sửu, tính đổ đồng 60.000 đồng/chậu, gia đình ông Bảy Thơ bỏ túi ít nhất 30 triệu đồng, số tiền thật sự ý nghĩa đối với một gia đình nông dân ở Phú Yên!
Thế nhưng, tiền thu Tết của ông Bảy Thơ chẳng thấm tháp gì so với ông Đặng Phong Dinh (45 tuổi, ở Ninh Tịnh, Tuy Hòa) chuyên nghề trồng mai xuân. Những ngày giáp Tết này, chưa bao giờ thương lái với hàng đoàn xe tải từ các tỉnh, thành Tây Nguyên, miền Nam, miền Bắc… về Phú Yên săn lùng hoa nhiều đến thế. Vườn mai trên 5 năm tuổi của ông Dinh bỗng dưng quá... đã! Không còn cảnh bị “áp đặt” giá cả như mọi năm, vợ chồng anh Dinh đã có quyền định giá bán mai.
Gia chủ cứ thế ngồi tại vườn ra giá: 800.000-2.000.000 đồng/chậu mai (cao hơn năm 2008 từ 200.000-500.000 đồng/chậu), bỏ túi “khoẻ re” trên 100 triệu đồng!
Ông Trần Văn Thu, Chủ tịch Hội Làm vườn Phú Yên thì rung đùi phân tích: “Có thể nói vụ hoa Tết Kỷ Sửu ở Phú Yên là một thắng lợi toàn diện! Thời tiết bất lợi hơn hẳn mọi năm nhưng tay nghề, sự đầu tư của nhà vườn đã được nâng cao nên chẳng hề gì. Năm nay, nhà vườn cũng chủ động bắt tay thương lái để “luân chuyển” một lượng lớn hoa - cây cảnh ra các tỉnh, thành khác nên ít còn cảnh đọng, ế hàng như năm rồi. Thế nên nhà vườn, nhà buôn và người bán lẻ cùng thắng!”.
Những chậu quất cuối cùng ở Ninh Tịnh (Tuy Hòa) đang lên xe ra Bắc
Với gia đình bà Nguyễn Thị Nhung (56 tuổi, ở thôn Quy Hậu, xã Hòa Trị, H.Phú Hòa, Phú Yên), một vụ lúa đông - xuân mưa ngập kéo dài phải sạ đi sạ lại 3 lần, tưởng như ngã quỵ, thế nhưng Tết này nhà có đến 2 thùng bia lon! Ấy là nhờ gia đình bà còn có nghề phụ là làm đậu miếng; giáp Tết lại còn “bắt được độ” gói bánh tét, bánh chưng để cung ứng cho các tỉnh Tây Nguyên. Thế là… hết buồn, sắm Tết xong lại còn dằn túi trên 3 triệu đồng!
Hiệu tạp hóa Vĩnh Khương, hiệu quần áo may sẵn Phúc Thịnh, hiệu sách Thời Đại, cửa hàng điện thoại di động Anh Phương,… trên đường Phan Đình Phùng, TP Tuy Hòa (Phú Yên) đều cho biết: tưởng thua mọi năm nhưng đến lúc này “dòm lại” đều kinh doanh đạt khá hơn dịp Tết Mậu Tý qua. Theo bà chủ cửa hiệu Phúc Thịnh, thời tiết giáp Tết năm nay bỗng dưng quá lạnh, thế là bên cạnh các loại quần áo khác, đồ ấm bán chạy.
Ông chủ hiệu Vĩnh Khương thì cho hay: thấy thời khí mưa gió liên miên, ngỡ nông - ngư dân không đi mua sắm Tết, thế nhưng kết sổ vẫn thấy hàng thực phẩm - giải khát lại bán mạnh hơn năm trước...
Trước giờ giao thừa, PV Thanh Niên dẫu theo dõi từng biến động trên địa bàn trong năm nhưng vẫn thật sự bất ngờ trước tâm sự hài lòng của những người dân lao động mùa Tết Kỷ sửu. Sự năng động, ý chí quyết tâm vượt qua bất lợi để có một cái Tết no đủ của người dân Phú Yên thật đáng khâm phục!
Hùng Phiên

Quà tặng của cụ Bùi

MỪNG ĐẠI PHÚC
(Tặng nhà thơ-nhà báo Đức Tuấn)

Cuối năm Mậu Tý nàng sinh hạ
Cho chàng Hoàng tử đẹp như mơ
Tuấn tú, khôi ngô, nền nho nhã
Con hơn cha, phúc đức ba đời.

Mậu Tý bước qua, Kỷ Sửu đến
Trâu vàng chờ sẵn ở tại gia…
Chuột ngọc bước ra là thẳng tiến
Tiền hô - hậu ủng… khải hoàn ca.

Saigon, mùng ba tết - năm Kỷ Sửu
Bùi Văn Tuấn

Chủ Nhật, 25 tháng 1, 2009

Đầu xuân... khai bút thằng con trai

Vợ đẻ Tết

Ngoại trừ trẻ con, thiên hạ chỉ nói đến chữ “Tết” là hãi hùng bởi phải lo toan đủ thứ đến không kịp thở. Vậy mà con tôi lại “oa oa, chào bố” trong dịp này, cách Tết Kỷ Sửu đúng 5 hôm! Ối chà chà, mỗi dịp Tết nhứt đã chạy bở hơi tai, kỳ này lại cộng thêm “vụ án” vợ đẻ thì còn có nước… nhảy choi choi hơi nước! Của đáng tội, “có sức chơi, có sức chịu” chứ than thở, thơ thản cái của gì?!
Thế là chiến hữu, bà con ơi, “Tết này em không thèm kẹo mứt” vì đã có hàng đống tả lót, pha sữa, cơm nước,… và ngàn thứ hầm bà lằn khi vợ nằm ổ, con đỏ hỏn phải giải quyết rồi! Tạm biệt những trận nhậu, những buổi nói dóc liên hoàn, những cuộc du xuân lâng lâng ông địa; bố phải hy sinh vì nghĩa lớn! Thế nhưng bù lại, con đã đem đến một niềm vui vô bờ, hạnh phúc vô biên cho gia đình mình!
Đã bảo năm Sửu hãy “chào bố” mà cái thằng cu này cứ muốn làm Chuột, thế mới khổ thân nhà thơ! Dẫu gì thì dẫu, bố vô cùng hân hoan không lời tả xiết vui mừng hạnh phúc khi đón con ra đời, cảm ơn vợ, cảm ơn con. Bố hiểu, với tình yêu con của bố mẹ, con sẽ thành Rồng, thành Hổ, chứ ăn thua gì… Sửu! Mong con mạnh ăn chóng lớn và thông minh như bố!!!


Giao thừa Mậu Tý-Kỷ Sửu

ĐÀO ĐỨC TUẤN

Thứ Hai, 12 tháng 1, 2009

Giáo sư bụi Văn Công Hùng


Một nhà thơ làm báo bằng văn
NGUYỄN THANH MỪNG
Khái niệm nhà văn làm báo chắc không phải là chuyện lạ, nhất là trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay. Cánh cửa mở ra cho nhà văn tung hoành trên “sân cỏ” báo chí không đơn thuần là chuyện “cơm áo không đùa...” mà vì nơi đây, nhà văn thể hiện mình ở nhiều góc độ khác nhau, hiểu từ hai phía, nhu cầu biểu lộ tâm trạng của họ và nhu cầu của đời sống đất nước và nhân dân đòi hỏi ở họ.
Trong cơ chế của ta hiện nay, những nhà văn có hưởng lương từ ngân sách nhà nước, nhiều người được xếp vào thang bậc của báo chí. Ða số, ngoài thẻ nhà văn, còn có thẻ nhà báo, có người lại có cả hai loại thẻ báo chí: thẻ do Bộ VHTT cấp và thẻ do Hội Nhà Báo Việt cấp. Họ là phóng viên, biên tập viên, trưởng ban này ban nọ hoặc là phó tổng chánh tổng biên tập của một tờ báo, tạp chí. Trường hợp của các nhà văn công tác tại các hội VHNT địa phương thì cũng vậy. Ngoài việc săn sóc tờ báo nhà, nhiều người còn viết cho các báo trong tỉnh và báo chí trung ương. Nhà văn viết báo, không chỉ viết những bài báo theo các thể tài báo chí dù ngay chính những thể tài ấy, họ cũng tìm cách này cách nọ phả cái sở trường văn chương của mình vào. Chính phẩm chất văn chương được khơi gạn đúng cách đã ân sủng cho họ một số ưu thế và đặc trưng trong hoạt động báo chí.Nhà thơ Văn Công Hùng ở Tây Nguyên không là trường hợp ngoại lệ trong thế giới nhà văn hoạt động trên các phương tiện thông tin đại chúng muôn hồng nghìn tía hôm nay. Ai cũng biết, anh là tác giả của các tập thơ và trường ca Bến đợi, Hát rong, Hoa tường vi trong mưa, Ngựa trắng bay về, Gõ chiều vào bàn phím... với những thao thiết của dã quỳ vàng, của thông xanh, xoan tím, phượng hồng, những gió và nắng, những bùn lầy và cát bụi, những cần rượu và cồng chiêng, âm hưởng của vùng đất Tây Nguyên anh đang sống, của vườn Thanh tuổi thơ, của xứ Huế quê nhà, của phương Bắc trời Nam hay các ngả đường miền Trung mà anh thường xuyên rong ruổi. Những đề tài thơ ca của anh, những vùng đất thơ ca của anh lại đi về dưới ngòi bút linh hoạt bằng những thể hiện khác, những chiều kích khác trong những trang phóng sự, tản văn, tùy bút, bút ký, ghi chép suốt mấy chục năm bươn bả, trình làng (đếm không xuể) trên hàng bao nhiêu tờ báo, nhiều nhất là ở các báo Văn Hóa, Văn Nghệ trẻ, Nhân Dân hằng tháng... Giờ là lúc những trang văn rời khỏi ngôi nhà báo chí mà nó cư trú, về tề tựu (có chọn lọc) trong một tập văn xuôi nhan đề Mắt cao nguyên. Anh viết báo bằng một giọng văn riêng của Văn Công Hùng. Hay nói đúng hơn, anh tìm cách se mối tơ hồng giữa tài văn của mình và những tờ báo mình tâm huyết cộng tác, ở phía nhạy cảm nhất, lương duyên nhất của hai lĩnh vực, để có thể làm văn chẳng chỉ trên các báo văn hóa văn nghệ mà ngay trên các trang báo thời sự chính trị xã hội. Chính vì vậy, những tác phẩm của anh đã tìm được chút tri âm tri ngộ, sẻ chia giữa hai lằn ranh thời khắc và mùa màng, giữa một ngày và trăm năm.Ðọc văn xuôi Văn Công Hùng, ở góc độ nào đó là nghe thêm tiếng gọi của thơ ca trong một chiều kích khác, chiều kích của những chất liệu văn hóa, những hình thể của hiện thực cuộc sống hiện đại và truyền thống, dân tộc và nhân loại, đan xen vào nhau, lan tỏa trong từng mạch của tư duy, của cảm xúc. Với anh, sự nồng nhiệt, hồ hởi, dốc cạn lòng mình, là những điều không thiếu, đôi lúc cần phải vươn cổ giang tay nữa. Nhưng sự đằm thắm luôn ẩn nấp đâu đó để khi cần thiết thì nó hiện ra, không chỉ là hơi ấm của bàn tay mà còn là tiếng thở sắt son của dòng suối nguồn cội. Thì ra, đối với người cầm bút chân chính, nguồn cội là cái luôn tiềm tàng trong tim óc, khi bắt gặp những cơ duyên của hiện thực đời sống, nó sẽ sẵn sàng bước ra ánh mặt trời để giãi bày và chia sẻ.Mắt cao nguyên là tập văn xuôi dung chứa tâm sức của cả ba nhà: một nhà thơ Văn Công Hùng mẫn cảm dâng trào theo hình ảnh, nhạc điệu, một nhà nghiên cứu văn hoá dân gian Văn Công Hùng luôn đào sâu vào những vốn cổ và nỗi bức xúc gan ruột của tiếng nói bảo tồn, chấn hưng, một nhà báo Văn Công Hùng xông xáo, nhiệt huyết mong muốn người cùng thời sẻ chia và Nhà đương cục lắng nghe thiện chí của mình. Cùng song hành với ba nhà đó là một con người mang những tín niệm nghệ thuật nghiêm trang và thoáng đãng, ở mức độ nào đó, biết lao tâm khổ tứ trong hành trình rong chơi và biết rong chơi trong hành trình lao tâm khổ tứ. Ðan xen trong những dòng văn viết về hôm nay là những hoài niệm, hồi ức, cái chớp mắt giữa ngày dài tháng rộng đã vương vấn cả một khung trời, giọt rượu nồng trong mây gió nước non đã neo mùi hương vào cổ tích. Dù không ai níu kéo thời gian quay lại được nhưng kỷ niệm thì còn mãi. Hình như Văn Công Hùng tìm cách lưu giữ những kỷ niệm như những báu vật trong cuộc đời rất nhiều gió bụi của đường trường và rất nhiều biến chuyển sâu sắc khi đất nước và thế giới vắt mình qua hai thiên niên kỷ. Những điều này, anh cũng đã thể hiện trong thơ. Nhưng văn xuôi có đặc trưng riêng, có cái tung tẩy, miên man của nó để anh nói thêm những điều cần nói. Cả chất giọng hóm hỉnh “hu-mua” của anh cũng được khai thác triệt để.Quen biết nhau đã gần ba chục năm nay, Văn Công Hùng và tôi thường gắn bó với nhau trên những chặng đường công tác, ra Bắc vào Nam, không thiếu những cửa ga, bến cảng, sân bay và quấn quít cùng những chân trời mới lạ là những nỗi niềm canh cánh cho văn chương, học thuật. Thế hệ những người cầm bút như chúng tôi, mới đó mà đã hoa râm, đôi thoáng chốc bất chợt ngậm ngùi nhìn những sợi tóc trắng ngui ngút nhớ thương một thời tuổi trẻ. Ấy là những năm tháng thiếu cơm, ăn độn bo bo và mì sợi, đói rã ruột nhưng vẫn đều đều sáng sáng lên giảng đường, chiều chiều ngồi thư viện ngấu nghiến say mê những pho sách nghìn trang, tối tối giành cho những vần thơ đầy khát vọng giữa xứ thơ sông Hương núi Ngự. Nói vậy không phải để ôn nghèo kể khổ mà để các thế hệ sau, thế hệ con cháu chúng tôi, khi nghe kể có thêm một nhân chứng để tin chứ đừng bảo cha ông mình nói trạng, tội lắm. Mơ ước khi ra trường ăn được bữa bánh bèo nậm lọc thoải mái mà không ký sổ nợ, nói như Văn Công Hùng là một mơ ước... vĩ đại của thời sinh viên gian khổ và rất nhiều mộng mơ. Xa Huế, chúng tôi kẻ đầu non người cuối bể, nhưng năm nào cũng có dịp gặp nhau, khi Quy Nhơn, khi Pleiku, khi Hà Nội, khi TP. Hồ Chí Minh, khi Thái Bình, khi Cần Thơ, khi Sầm Sơn, khi Ðà Lạt, khi Hội An, khi Nha Trang, khi Long An... Dù trong hội nghị complet cravat, bên chiếu rượu quần lửng áo thun hay hành hương qua các danh lam thắng cảnh, thỉnh thoảng ghé vào quán cóc, khó ai nghĩ Văn Công Hùng không phải không thuộc giới...! cần lao. Anh làm việc mướt mồ hôi, không ngơi tay không ngơi chân và không ngơi... miệng, hết quay phim, chụp ảnh, mở máy vi tính xách tay hoạt động tác nghiệp cho đến việc thường xuyên khuấy động không khí cho nóng lên, tưng bừng lên, hả hê lên. Cái khổ và cái vui của một người nhiều đa mang trắc ẩn, nhiều bình diện hoạt động, nhiều lúc đan xen đến mức không phân biệt được, làng văn làng báo cho là nhiệm vụ, dân chúng cho là... bí hiểm, vợ con cho là... trời hành, bản thân lúc cho là nghề khi cho là nghiệp, tiện thể thêm chữ chướng vào sau chữ nghiệp cũng tốt. Ngay như việc ăn một trái ớt, nhìn một sắc hoa tím, nghe một trái bóng lăn, cũng ngẫm cái lý của xứ này xứ nọ, tính cách này tính cách khác, hồi tưởng này ký ức kia... Rồi đêm đêm, cứ kỳ cạch cày cày xới xới với cánh đồng chữ nghĩa, cười một mình, khóc một mình, rung động một mình, cô đơn (cái này chắc chắn cũng đúng... một mình), cho hoàn tất kịp đúng kỳ báo, không lơ là thoái thác được. Nghe nói ngày xưa cụ Tản Ðà được ông chủ bút báo Nam Kỳ mời vào Sài Gòn làm báo, cụ bao tất tần tật từ A tới Z, nhưng đúng hạn tới hỏi bài thì cụ mắng rằng ông mướn tôi viết văn hay bổ củi. Nếu bổ củi thì xong nhưng viết văn phải chờ có cảm xúc. Tất nhiên, tôi không đem thi sĩ tài tử kiệt xuất Tản Ðà để so sánh, nhưng cái lý muôn đời của văn chương thì không hề loại trừ kẻ hậu sinh tài hèn đức mỏng hơn cụ. Văn Công Hùng (và một số nhà thơ làm báo hôm nay) nếu không muốn vận dụng câu trả lời của Tản Ðà trích trên thì phải tự gọi cảm xúc về, chưa có thì hú ba hồn bảy vía cho nó có để nó yểm trợ cho những trang văn sinh sắc và... đúng thời hạn. Trong tập Mắt cao nguyên này, trong ngồn ngộn hàng trăm bài báo, Văn Công Hùng đã tự chọn lọc và tước bỏ cái phần thời sự đi rất nhiều. Thời sự ở đây, ý tôi muốn nói là kiểu tin tức tân văn, chứ không phải ý nghĩa thời sự vĩnh cửu của đời sống tác phẩm mà ở mọi thời, văn chương đều cần có.Dĩ nhiên, tôi làm sao diễn tả hết những cảm nhận về tập Mắt cao nguyên, kể cả việc yêu mến bọc lót một vài (trong cơ man) kỷ niệm với tác giả của nó. Tôi biết, kẻ đồng điệu với Văn Công Hùng trên cuộc đời này cũng không phải hiếm. Có người trân trọng chép thơ anh trong sổ tay. Có người cắt một bài viết của anh, dán vào lưu bút. Có người, nhác thấy tên anh trên báo, liền dùng tin nhắn di động bắc cầu chia sẻ. Có người đọc thuộc lòng một đoạn văn giàu chất thơ của Văn Công Hùng. Vân vân... Họ ở nhiều lứa tuổi, nhiều thành phần, có em học sinh quàng khăn đỏ cũng như có cụ già quá ngưỡng cổ lai hy. Như thế, với một nhà thơ luôn tận tụy và hào hiệp làm báo bằng văn, còn gì sung sướng bằng.Ðến đây, tôi chợt nhớ chút bâng khuâng của sương khói cao nguyên, chút bâng khuâng mà Văn Công Hùng đã thú nhận nó lưu giữ anh lại khi có lần anh muốn dứt áo ra đi. Ý niệm về món nợ ở đời của người cầm bút thật là son sắt, thật là vi diệu. Nhà thơ ấy rất thơ với những món nợ thật mơ hồ và cũng thật rạch ròi, được anh thể hiện hết sức chân thành với trời đất, núi sông và cõi người. Chúng ta có thể lắng lòng nghe những mối nghĩa trọng tình thâm như vậy, bên trong những tầng ý nghĩa của ngôn từ... để khi khép tập sách lại, đâu đó trong đời, chúng ta bắt gặp ánh Mắt cao nguyên...

N.T.M
(nguồn: TCSH số 213 - 11 - 2006)

Thể lệ Cuộc thi Tản văn năm 2024 trên Viết SÁNG TẠO

  Công bố thể lệ Cuộc thi Tản văn năm 2024 trên Viết SÁNG TẠO   Thưa bạn đọc bạn văn! Tản văn đang là thể loại thời thượng vì tính chất cập...