Thứ Bảy, 27 tháng 12, 2008

Nén hương cho người vui tính



Một nhân vật hài hước vừa qua đây...

Ông Phước bên một góc bộ sưu tầm cờ, biểu tượng, kỷ niệm chương, búp bê,... các nước trên thế giới

Tên tui Đỗ Như Phước/ Tóc bạc trắng như cước/ Dáng to béo tầm thước/ Người rất thích hài hước/ Thấy gì hay bắt chước/ Không ham chức ham tước/ Chỉ ham tích đầy phước...
Đó là mấy dòng “tự khai” của nhà sưu tập “thế giới” hàng đầu Việt Nam, ông “trùm” thơ độc vận và là người làm từ thiện nổi tiếng Đỗ Như Phước...
Làm thơ giễu người giễu mình.
Về Phú Yên, hỏi “ông Phước nhà thơ hài hước” thì hầu như ai cũng biết, bởi ông quá nổi tiếng với những “món chơi” độc đáo, lại thường lên ti vi để nói chuyện và đọc thơ vui. Ví như Xuân rồi, mừng năm tuổi của mình, ông làm bài thơ vần “í” dài đến 50 câu nhưng công chúng Đêm thơ Nguyên tiêu núi Nhạn (Tuy Hòa) đã phăng phắc lắng nghe rồi vỗ tay rần rần. Bởi có “đủ thứ chuyện” như: WTO đã ký/ Hội nhập thật hợp lý/ Triệu người một ý chí/ Quyết nâng cao dân trí/ Tháo gỡ mọi thế bí/ Sản xuất vượt tiêu chí/ Được thế giới chú ý/ Việt Nam nâng vị trí...; đến việc Không nên say lúy túy và tranh thủ... nịnh vợ: Chớ có đi bồ nhí/ Để vợ cưng vợ quý...
Nhiều người biết, ông Đỗ Như Phước chẳng bao giờ nghĩ mình là nhà thơ, phải khó nhọc để làm thơ, “vần vè cho vui mà”, thế nhưng dân gian cứ gọi ông là nhà thơ! Cũng như chuyện ông được “đặc cách” đọc thơ trong đêm thơ Nguyên tiêu núi Nhạn, được công chúng hưởng ứng nhiệt thành nhưng không ít nhà làm thơ “nghệ thuật” phản đối: “Đây là sân của nghệ thuật nghiêm túc, sao để thơ “dưỡng sinh” của ông Phước chen vào?”. Ông vui vẻ: “Vậy thì thôi!”.
Thế nhưng có kỳ Nguyên tiêu vắng ông, công chúng chất vấn ban tổ chức tới tấp, thế là ông trở thành một người đặc biệt của đêm thơ, và cũng duy nhất một mình ông không đọc thơ “nghiêm túc” trong đêm thơ Nguyên tiêu lừng danh trên núi này...
Quả thật, ông không chối thơ mình đích thị là để “dưỡng sinh” chứ đâu mong khẳng định tên tuổi; ông chỉ làm chơi “cho khỏe người” thôi, còn ai nhớ là chuyện... của họ; vậy mà thơ ông cũng thấy người ta truyền miệng đọc đầy đường... Thế nhưng không phải ai làm thơ như ông Phước cũng được người đời nhớ! Nhiều người khó tính với nghệ thuật cũng phải “bái” chất dí dỏm thông minh và cái “duyên ngầm trời cho” của bút pháp Đỗ Như Phước; chẳng những “nghệ thuật hóa” loại thơ dân gian độc vận, ông còn là người đi tiên phong sáng tác loại thơ “chân lý” mà có những câu cứ tưởng của... ai: Quê tôi có một dòng sông/ Mùa hè nước cạn, mùa đông lại đầy/ Mặt trời mọc Đông lặn Tây/ Cá lội dưới nước, chim bay trên trời...
Xuất phát từ cuộc chiến với ung thư, ông đã biến đời mình thành một cuộc chơi đầy ý vị và có được những thành quả... ngoài dự đoán! Mê chơi “đủ món” và lĩnh vực nào cũng có thành tựu. Suốt ngày hồn hậu nói chuyện hài hước nhưng ít ai biết được ông già 72 tuổi đã chiến đấu từng giờ với căn bệnh ung thư đeo đẳng suốt 40 năm qua (mái tóc bạc sớm cũng do việc xạ trị ung thư), bên mình lúc nào cũng phải gắn hậu môn nhân tạo là một bọc... chuyên dụng! Ngay cả cái “bãi đáp” này cũng được ông trào lộng: Thế giới có vệ tinh nhân tạo / Phước tui có... hậu môn nhân tạo!
Sưu tầm kỷ vật để... tặng
Bản tính hồn hậu cởi mở, ham đi đó đây, ông lại như muốn thu cả thế giới về nhà mình qua các kỷ vật của tất cả các nước trên thế giới, chủ yếu là những thứ rẻ tiền như cờ, huy hiệu, kỷ niệm chương, búp bê... của các nền văn hóa trên thế giới. Nhiều nước bây giờ không còn tên trên bản đồ thế giới nhưng lại hiện hữu ở... nhà ông Đỗ Như Phước! Ky cóp 40 năm, căn nhà ông đã trở thành một bảo tàng thực thụ với trên 10.000 kỷ vật của 84 nước trên thế giới!
Đường quan chức của ông có thể thênh thang nếu thích, bởi ông tham gia cách mạng sớm, có trình độ, tư chất thông minh, gia đình ông có nhiều người thành đạt... Nhưng đời với ông “vui là chính, làm tới chức quan... hữu nghị chớ ít sao!” rồi về hưu mê say làm chuyện “tào lao” và lặn lội “cúi mình” đi gõ cửa vận động từ thiện. Có thể ông rất giàu nếu bán một số “chuyện chơi”, ví như ông đã lắc đầu từ chối khi một đại gia đặt vấn đề chuyển nhượng bộ sưu tập nồng ấm tình hữu nghị quốc tế này với giá trên 1 tỉ đồng! Thế nhưng ông Phước sẵn sàng tặng... Cuối năm 2007, Bảo tàng Cách mạng Việt Nam đã “nghe danh-đánh tiếng” và ông Đỗ Như Phước đã tặng 84 huy hiệu-tranh-tượng-mô hình lưu niệm của các nước cho bảo tàng này. Thư cảm ơn của giám đốc bảo tàng này có đoạn: “Hành động của ông Đỗ Như Phước là một nghĩa cử cao đẹp có ý nghĩa tác động sâu rộng với các tầng lớp xã hội trong vấn đề hiến tặng di sản văn hóa cho bảo tàng quốc gia”.
Đêm Nguyên tiêu con trâu –Kỷ Sửu, sẽ chẳng ai còn nghe ông đọc bài thơ vần “âu”... vì ông vừa qua đời ngày 7-11-2008. Hưởng thọ 72 tuổi.
Bài và ảnh: HOÀNG YẾN
(Người Lao Động CT)

Gạch và sách



Tác giả tiểu thuyết Vũ Thị Hạnh:

"Với tôi, nghề làm gạch vẫn là trước hết"

Tiểu thuyết "Dòng sông lạnh"

Cuộc trò chuyện giữa chúng tôi bắt đầu trong một quán càphê nhỏ sát chân núi Bài Thơ (Quảng Ninh). Vũ Thị Hạnh - tác giả của tiểu thuyết "Dòng sông lạnh" (NXB Văn học - 2008) - hoá ra là một cô thợ gạch Giếng Đáy, 24 tuổi, bé lũn cũn với đôi bàn tay đầy vết chai - dấu vết của một tuổi trẻ quá nhọc nhằn.
Nhưng điều tôi quan tâm là nghị lực sống của một con người hơn là những trang văn vừa được viết ra.Cô đã đi nhiều nơi chưa nhỉ?- Chưa. Làm gì có tiền để đi đâu. Học hết cấp 2, tôi đã phải nghỉ vì mình mẹ không lo nổi. Dưới tôi còn hai em nhỏ nữa. Lương mẹ tôi, mẹ cả giữ. Bố tôi hai bà. Bà nào cũng chỉ đẻ toàn con gái. Sau đó, bố tôi có "cho" một cặp chồng vô sinh, không ngờ được một thằng cu. Lúc sắp qua đời, ông viết di chúc lại có nhắc đến đứa em chưa biết mặt của tôi. Sau khi cha mất, mẹ cả hầu như không đến nữa. Ngày sang cát cho ông, sáu chị em và hai bà mẹ không ngồi chung được một mâm. Đáng lẽ phải thương nhau hơn vì bố đã mất rồi. Bố tôi là khổ nhất. Nhà tôi ai cũng khổ. Mẹ tôi làm đàn ông nhiều hơn là đàn bà. Cả tôi cũng vậy 21 tuổi đã phải lấy chồng. Tôi luôn thèm được về lại quê nội như hồi bố tôi còn sống. Tôi thích đi chợ quê. Chẳng có gì đâu, nhưng buổi sớm ra chen chúc sướng lắm. Không khí thanh bạch và mộc mạc. Tôi rất thích ngửi mùi đồng ruộng và khói rạ. Quê nội tôi là một vùng quê nghèo của Hưng Yên. Cuốn sách này được viết ra như thế nào? Khi ấy cô bao nhiêu tuổi và những nhân vật trong đó với cô có một mối liên hệ nào không?- Nó được viết vào những buổi tối không biết làm gì. Cũng chẳng biết đi đâu. Nhà tôi ở là một vùng đồi quạnh quẽ. Ngày ấy tôi vừa chớm tuổi 20. Tôi sinh năm 1984. Cuốn sách là một phần bóng dáng gia đình tôi. Kim - một trong số nhân vật chính nết na, đằm thắm, tinh tế là giấc mơ của tôi.Cô có cảm thấy viết khó nhọc không? - Rất nhiều là khác. Và tôi phải buông bút. Có vô số lý do mệt mỏi. Trước hết là công việc ban ngày quá nặng nhọc. Thợ gạch chứ có phải thợ thêu đâu. Tôi ít khi được ăn no. Bữa cơm ca bốn nghìn bạc thì tồi tàn. Chỉ có mỗi món canh được húp "tẹt ga" vì lõng bõng toàn nước. Trước đây tôi làm ở một lò "liên tục" tức là đốt liên tục và phải đưa gạch vào ra lò 24/24 giờ. Tôi đẩy xe, mỗi chuyến khoảng 120 viên gạch. Năng suất lúc đó của tôi rất thấp. Rồi ra lò thì cực lắm. Nóng và bụi. 2 khẩu trang, 1 khăn bông mà mũi vẫn đầy đất. Cước chằm nón phải chảy ra. Sau đó chuyển sang tạo hình vì các chú ấy thương tôi bé quá. Bây giờ công việc chính của tôi là gọt bavia Mỗi ngày phải đủ trên một nghìn viên ngói. Hết việc lại đi xe gạch. Có ngày phải xe tới dăm sáu nghìn viên gạch. Ông không tin à? Đây này, các đầu ngón tay đây này. Phôi khô cũng phải cố mà ấn. Ấn mãi đến bướu cả ngón... Trong cuốn sách tôi có viết về chuyện đó. Rất nhiều trang nói về cuộc sống ấy. Tất nhiên những trang tôi thích nhất vẫn là những trang viết về tình yêu, lòng chung thuỷ, sự trinh tiết...Có lúc nào cô phải khóc vì cơ cực không?- Hồi xưa thôi. Có hôm tôi phải đẩy cái goòng gạch 240 viên. "Lồi tù và" ra nó cũng không đi! Nói chung nghề của tôi là một nghề lao lực. "thổ mộc" mà ...Và đó cũng là lý do đưa cô đến với văn chương?- Có lẽ thế. Mười bảy tuổi, tôi vẫn chỉ biết có hai ngả đường: Một vào nhà máy, một ra ga vào mỗi sớm tinh mơ để bán rau cho mẹ. Cuộc sống nhọc nhằn quá. Cô đơn nữa. Tôi không có tiền mua sách. Chỉ vớ được những tờ báo cũ. Thật lòng, tôi chẳng biết nhà văn nào vào nhà văn nào để mà theo hay không theo. Tốt nhất là tự viết ra. Một cách làm bạn với chính mình bằng những nhân vật cũng từ mình. Vào cuộc, tôi bắt đầu luôn bằng tiểu thuyết. Cô quan niệm tiểu thuyết là thế nào và môi trường chật hẹp của một đời sống ít cơ hội giao lưu có làm khó cho cô trong việc xây dựng và xử lý mối quan hệ giữa các nhân vật hay không?- Tôi nghĩ rất đơn giản, tiểu thuyết là một câu chuyện dài. Một cuộc đời dài. Đến đủ thì đi. Còn môi trường chỉ là cái sân khấu ước lệ cho nhân vật thể hiện tính cách và số phận của mình. Tuy nhiên, tôi chẳng biết tí gì về lý thuyết văn chương cả. Mà như thế, có lẽ lại tốt hơn. Cứ để nỗi buồn của mình tự nó thành chữ nghĩa.Dù sao, cô cũng vẫn thành công rất sớm, đúng không?- Không hẳn thế. Đúng ra thì tôi đã từng thất bại một lần. Đó là vào năm 2003 khi tôi viết xong cuốn truyện đầu tiên (cứ cho là tiểu thuyết) hơn 400 trang. Truyện kể về một tình yêu. Tôi đưa cho mấy người cùng làm đọc, họ bảo: "Mày nói phét. Đó không phải cuộc sống của chúng tao, cũng chẳng phải cuộc sống của mày. Làm chó gì có lắm điều tốt đẹp đến thế!". Sau đó, tôi cứ buồn mãi.Cô có nghĩ sẽ viết văn và bỏ hẳn nghề cực nhọc hiện nay không?- Không. Viết văn còn "khổ sai" gấp hai lần. Đẩy gạch xong là xong. Tôi chỉ nghĩ viết văn để giãi bày thôi. Tôi không hề nghĩ đến việc bỏ nghề thợ gạch. Nhất là giờ đây, tôi vừa phải phải nuôi con nhỏ vừa chăm sóc mẹ chồng cũng là một thợ làm gạch nghỉ mất sức, từ lâu chẳng còn được hưởng chế độ nào nữa. Tất nhiên, tôi chẳng thể bỏ văn chương. Cuộc sống mà suốt ngày chỉ cắm mặt sau chiếc xe bò gạch, còn gì buồn hơn nữa? Nhưng với tôi, nghề nghiệp đang làm vẫn phải là trên hết. Nó là cơm áo hàng ngày của cả nhà. Chểnh mảng là đói.Phải làm vợ và làm mẹ sớm thế, cô nghĩ như thế nào về gia đình?- Nó vừa là gánh nặng, vừa là chỗ dựa tinh thần và sự dỗ dành dịu ngọt. Chẳng có nỗi lo nào bằng lo con ốm. Chẳng có nỗi buồn nào bằng nỗi buồn cãi nhau với chồng. May thay, tôi luôn được chia sẻ mọi điều vì chồng tôi cũng cùng nghề làm gạch. Bởi vậy, đôi khi dù mệt mỏi tôi vẫn cố gắng có mặt ở nhà máy. Khác hẳn khi cuốn sách đang viết dở, chỉ mong được ốm một ngày để được ngủ no nê. Bây giờ, mong muốn lớn nhất của cô là gì?- Cu con chóng lớn để mẹ cháu có thời gian học bổ túc cho xong hết cấp 3. Nhưng nhỡ nó chưa kịp lớn đã lại "vẫy gọi" tiếp một cu em nữa thì sao?- Chả dại gì "dâng đời" một "tác phẩm" chính mình cũng không muốn đọc! Còn điều thứ hai?- Mua một chiếc máy tính. Cũ thôi cũng được. Viết tay cực lắm. Vậy là cô đã lại bắt đầu ngay một cuộc khởi sự mới?- Vâng, tôi vừa in một số truyện ngắn. Nhưng tôi cũng đã manh nha một cuốn về quê nhà, về dòng họ của mình. Mặc dù tôi chỉ được sống ở đó có sáu năm. Tôi nghĩ rất nhiều về bố tôi, mẹ cả và các chị của tôi. Tôi nhớ ngôi nhà có cây bòng ngoài ngõ, cành đâm ngang ban đêm nhìn tựa như chiếc giá treo cổ. Cả cái đống rạ rất to ở chái hồi. Mùa đông, tôi thường chui vào đó ngủ cùng với lũ chó con. Trong ký ức u buồn của tôi, vẫn còn nguyên cả mùi vị ngọt ngào của những chiếc nấm rạ nướng trong lá mướp...Vâng, với tôi mọi cái đều mới chỉ là sự khởi đầu hết sức mong manh.- Xin cảm ơn cô.
Ngô Mai Phong thực hiện
(LĐCT)

Thứ Tư, 24 tháng 12, 2008

Thi Phật Việt Nam



Nhà thơ Phạm Thiên Thư
“Thi hóa” kinh Phật


Những tác phẩm Kinh Hiếu, Kinh Ngọc - Qua suối mây hồng (Kinh Kim Cương), Hội hoa đàm (Kinh Hiền Ngu), Suối nguồn vi diệu (Kinh Pháp Cú)... của nhà thơ Phạm Thiên Thư đã được nhà sách Cảo Thơm (Đà Nẵng) liên kết với NXB Văn Nghệ tái bản sau hơn 30 năm. Những tác phẩm này được nhà thơ “thi hóa” từ kinh Phật
Nhà thơ Phạm Thiên Thư từng là một tu sĩ Phật giáo từ năm 1964 – 1973 với pháp danh Thích Tuệ Không. Trong 9 năm ở chùa, ông đã tiếp cận tư tưởng nhà Phật và kinh Phật đã thấm đẫm trong các sáng tác của ông. Có thể nói, giữa đạo và đời đã hòa trộn vào vị tu sĩ - nhà thơ Phạm Thiên Thư. Chính vì đạo và đời cùng tồn tại trong một con người nên nhà thơ đã hoàn tục để tiếp tục tu tại gia cho đến hôm nay. Nhiều bè bạn gọi vui Phạm Thiên Thư là “vị tu sĩ lãng mạn”, chính nhà thơ cũng tự trào với chính mình: ...Hỏi con vạc đậu bờ kinh/ Cớ sao lận đận cái hình không hư/ Vạc rằng: thưa bác Thiên Thư/ Mặc chi cái áo Thiền Sư ỡm ờ... (Động hoa vàng).
Việc thi hóa kinh Phật của Phạm Thiên Thư diễn ra trong thời gian ông ở chùa với mong muốn kinh Phật đi vào cuộc sống người Việt một cách gần gũi nhất. Hơn thế, nhà thơ còn muốn thông qua việc làm này sẽ đưa ra một góc nhìn kinh Phật của riêng người Việt. Trong các tác phẩm vừa nêu trên, các địa danh trong kinh Phật bên Ấn Độ đã được Phạm Thiên Thư chuyển thành các địa danh ở Việt Nam. Việc chuyển địa danh hay đưa vào những hình ảnh đậm chất Việt Nam của nhà thơ đều phù hợp tư tưởng nhà Phật và một phần nào đó đã tôn vinh thêm kinh Phật trong lòng người Việt. Chẳng hạn bài Khép kinh trong tập Qua suối mây hồng (Kinh Ngọc), Phạm Thiên Thư viết: Chẳng nương bè trúc ngọc/ Vượt qua suối mây hồng/ Con chim vô lượng kiếp/ Về tha trái Nhãn không.
Những tập thơ thi hóa kinh Phật của Phạm Thiên Thư được viết trong tâm trạng thành kính xuất phát từ những giấc mơ đẹp. Ông thường viết vào buổi sáng sớm sau một giấc ngủ với những điềm lành bao quanh giấc mộng. Tối hôm trước khi bước vào giấc mơ của riêng mình, Phạm Thiên Thư đều thắp nhang thành kính nguyện cầu trước Quán Thế Âm Bồ tát. Ông kể: “Trước khi chấp bút thi hóa kinh Phật tôi đều nguyện cầu điềm lành đến với mình. Những điềm lành đó tôi gọi là giấc mộng đẹp. Nếu tối ngủ mà thấy điềm không hay thì nhất định hôm sau dù có ý tưởng cao siêu trong đầu tôi cũng không viết ra”. Chính vì lòng thành kính của mình, những tác phẩm thi hóa kinh Phật của Phạm Thiên Thư dù trải qua nhiều biến thiên cuộc đời vẫn còn tồn tại đến hôm nay. Nhưng sự tồn tại trên giấy mực của những tác phẩm này vẫn chưa đạt được ý nguyện của nhà thơ. Ông bộc bạch: “Khi tôi thi hóa kinh Phật, tôi tâm niệm và ước mong những tác phẩm này đến được với nhiều người, ngay cả những người không bao giờ đọc sách”. Ông muốn rằng ngay với những bác nông phu vừa cày bừa vừa có thể đọc thầm trong đầu những vần thơ mà cũng chính là kinh Phật được chuyển hóa.
Trong cuộc đời tu hành của mình, dù là tu ở chùa hay tại gia, những tư tưởng trong kinh Phật luôn chi phối tất cả hành động của nhà thơ Phạm Thiên Thư. Ông kết hợp sự tu tập vào các sáng tác của mình. Trong hai đêm 9 và 10-5, chương trình Phạm Duy - Con đường tình ta đi, lần đầu tiên sau nhiều năm vắng bóng, bài hát Em lễ chùa này được phổ nhạc từ bài thơ Thoáng hương qua của Phạm Thiên Thư đã tái ngộ khán giả. Bài thơ này, trên khuôn nhạc Phạm Duy cứ ngỡ là thơ tình thuần túy, song chất Phật học vẫn là tư tưởng chủ đạo. Như nội dung bài thơ, nhà thơ Phạm Thiên Thư kể ông đã lấy cảm hứng từ chuyện tình của một chú tiểu thầm yêu một nữ Phật tử đi viếng chùa. Khi Phật tử này mất, được an táng trong vườn chùa, nên đã có ca từ: Vườn chùa đây – vào nằm trong đất/ Nép bên hoa – ôi những hoa vàng/ Vườn đào tơ chập chờn cánh bướm/ Bướm khua râu – ngơ ngác bay ngang/ Mộ của em - mộ vừa mới lấp/ Có con chim -nào hót trên cây/ Lời của chim - chìm vào tiếng suối/ Suối xanh lơ - buồn khóc ai hoài...
Ở gần tuổi thất thập cổ lai hy dường như nhà thơ Phạm Thiên Thư đang “hoàn đồng”. Ông hồn nhiên trong nụ cười, trong suy nghĩ và cách nói chuyện. Mọi việc từng trải qua trong đời, Phạm Thiên Thư nhớ nhớ quên quên. Nếu có người quen nào ngồi nhắc lại, ông sẽ “à, à nhớ rồi!”. Trong cuộc sống, những cái hữu hình như thân thể lẫn những điều vô hình như trí nhớ rồi cũng thành hư không. Nhà thơ Phạm Thiên Thư vẫn tu thiền giữa chốn lao xao, trong quán cà phê Hoa Vàng của mình ở cư xá Bắc Hải, lòng ông nhẹ nhàng như câu thơ: Mây đã qua cầu.
Phạm Thiên Thư đã mở ra một trang sử mới cho nền văn học Phật giáo Việt Nam trong việc thi hóa kinh Phật và mang giáo nghĩa giải thoát vào thi ca dân tộc. Mỗi khi nghe lời thơ Đạo Ca, ngâm Đoạn trường vô thanh và đọc Kinh Ngọc, Kinh Thơ, Kinh Hiền... của thi sĩ họ Phạm, người ta như thể không còn phân biệt nổi biên giới giữa Đạo và Đời mà dường như bị hút vào một dòng sinh lực không gian vô tận dung hòa mọi tư tưởng nhân sinh. Phải chăng, đó là nét đặc thù của Phật giáo Việt Nam đã hơn một lần chói sáng qua triều đại Lý, Trần...? (Trích lời giới thiệu của Thượng tọa Thích Tâm Giác trong Hội hoa đàm – NXB Văn nghệ 2006).
LÂM DIÊU CA
(theo NLDO)

Chủ Nhật, 21 tháng 12, 2008

Tưởng nhớ anh Tiến "râu"

Về Phú Yên với cà phê Tùng


Dân miền Trung ăn uống thứ gì cũng đậm hương, đậm vị. Với đất Tuy Hòa - Phú Yên, một trong những thức mà dân giang hồ sành điệu đánh giá “ngon nhất nước”- ấy chính là cà phê.
Đây không phải là đất trồng nhiều cà phê như Đắc Lắc, Lâm Đồng nhưng công thức rang tẩm, chế biến thì “độc nhất vô nhị” với bí quyết trộn nước mắm nhĩ vào cà phê. Một trong những người tiêu biểu trong nghề chế biến cà phê là ông Trương Văn Tiến với một hệ thống nhà hàng cà phê liêu xiêu lòng khách thập phương…
Từ ăn ngủ bên chảo cà phê
Giữa năm 2002, nghe tin ông Tiến “râu” mở một trà thất loại sang tại thị xã Tuy Hòa (vốn đầu tư đến 4 tỷ đồng), nhiều người lắc đầu: “Đúng là thừa tiền, trà lá gì mà bỏ cả tiền tỷ…”. Mà thật, xứ nông nghiệp Phú Yên quê tôi, ít ai chơi “ngông” như vậy. Ông cứ lặng lẽ làm, thức khuya dậy sớm cùng cái công trình “dối già” của mình tại 69 Tản Đà. Vốn là dân trồng cà phê ở Gia Lai, rồi được biết nhiều bằng sản phẩm “Cà phê Tùng” (đã đăng ký thương hiệu), gia đình ông lại tiếp tục bán cà phê bột tinh chế tại nhà riêng trên đường Nguyễn Trãi, rồi Hùng Vương, đặc biệt là Trà Thất dưới chân Nhạn Tháp này. Ông sống chết bằng cà phê, làm cà phê từ A đến Z bằng một tình yêu máu thịt; chẳng phải ông thừa tiền gì đâu, tôi vẫn thấy ông đi trả lãi ngân hàng đều đều.
Dân ghiền cà phê chính tông sỡ dĩ công nhận cà phê Tuy Hòa thuộc loại “của ngon vật lạ” (cà phê Tùng là một đại biểu), bởi bởi độ keo tuyền và hương vị vang lừng như biết hát ca, không lẫn vào đâu được. Cả một đời lăn lộn thăng trầm cùng cà phê, ông Tiến có thể ngửi ngang ly cà phê là biết nó được chế biến như thế nào, phụ gia ra sao. Ông kể: “Tôi không thể nhớ hết bao nhiêu đêm nhễ nhại mồ hôi bên chảo rang cà phê, vừa truy lùng sách vở chuyên đề, vừa nghĩ cách làm sao để tạo được một hương vị độc đáo riêng cho cà phê mình làm ra. Phải tự tay chọn, rang, phải cảm nhận cho được độ “tới” của cà phê bằng cả khứu giác, thị giác và cả con tim mình thì mới hòa quyện được cái hồn mình trong cốc cà phê. Không mê làm sao thành, chú!”.
Đến “quán cho ra quán”
Là một người kinh doanh có phong cách nghệ sĩ, ông Tiến đã làm việc gì là làm “tới đọt”. Cũng như ông đã từng nổi tiếng nhà một nghệ nhân trồng, sưu tập và chơi cây cảnh thuộc loại tầm cỡ, ý thích mở nhà hàng trà - cà phê của ông cũng vậy. Thấm thoát, khu trà thất đã thành hình tựa lưng duyên dáng vào núi Nhạn giữa lòng phố thị Tuy Hòa. Trong suy nghĩ của nhiều người, xây quán tốn kém, sang trọng như vậy thì giá cả thức uống phải cao, phải là “giá sài Gòn” thì chủ nhân mới mau thu hồi vốn; dân kinh doanh có bao giờ “làm chơi”,… Tuy nhiên, nhờ “nhập tận gốc, làm tận tay” nên giá cà phê của ông vẫn chỉ 3-4 ngàn đồng/ly. Thế là khách bình dân yên tâm ra vào tấp nập.
Ngoài món cà phê truyền thống, tại 69 Tản Đà còn là một trong những không gian trà thất đậm chất phương Đông, lần đầu có mặt ở Tuy Hòa. Ở đây có hơn 20 loại trà do một người bạn Việt kiều truyền lại cho vợ chồng ông Tiến cách pha chế. Từ 6-15 ngàn đồng/tách, kèm theo phích nước châm và ít đường phèn, mứt gừng; thế là có thể “vô tư đi em” hàn huyên thư giãn trong một không gian cỏ cây gợi cảm.
Giá cả phải chăng và phong cách phục vụ lịch thiệp, tận tình đã tạo cho trà thất này thành một điểm hẹn lý thú cho nhiều giới. Từ khách du lịch bằng máy bay, quan đầu tỉnh đi tiếp khách đến công chức, học sinh sinh viên, thợ thuyền giờ rỗi rãi; mỗi người một “gu” chọn thức uống, góc ngồi riêng. 4 tầng nhà cùng nhiều khoảng sân thoáng đãng, phải đến vài trăm chỗ ngồi nhưng cách bố trí, tạo dáng khéo léo cùng hệ thống cây cảnh đắc địa, làm cho “ẩm khách” không cảm thấy quá đông đúc mà vẫn gần gũi, riêng tư cần thiết. Thế là nơi đây đã thành một địa chỉ trong tâm thức khách sành điệu. “Đi cà phê Tùng!” giờ không chỉ là chuyện giải khát mà còn là đi tìm một chút niềm thư thái với không gian nhà đẹp, đất trời quyến rũ.
Bây giờ thì nhiều người trầm trồ: “Đắt khách như thế thì đâu còn là chuyện ngồi thu tiền lẻ… Cha này tài thật!”. Ông Tiến giờ vẫn ngày ngày chào đón khách và chăm chút cho cơ ngơi của mình giữa Tuy Hòa đang sắp lên thành phố. Thủy chung với cà phê và đam mê tạo dựng quán đẹp, cuộc đời đã đền đáp cho ông, con cái đều đã thành đạt, ông đang tích cực truyền nghề cho cậu con trai. Ngoài các nhà hàng giải khát ở Tuy Hòa, Gia Lai, ông Tiến còn đang tính chuyện đưa thương hiệu cà phê cùng niềm đam mê mở quán “tiến về Sài Gòn”…
Hùng Phiên
Việt Báo (Theo_Thanh_Nien)

Thứ Sáu, 19 tháng 12, 2008

Viết dữ quá, blog đăng không kịp

BONG BÓNG LÀ ĐỂ BAY ĐI

Tản văn của Hoàng Lan

Trên mép ghế đá công viên vắng tanh, con bé bán bóng bay ngồi rúm ró, buồn thiu với ba chiếc bóng còn sót lại sau buổi bán đang chao chao đùa với gió trên đầu, cuối năm lạnh tràn về giăng mắc khắp nơi. Vừa thấy tôi ngừng xe, con bé mừng giọng tất tả: Chú mua dùm con.- Ừ! Ba chiếc hết bao nhiêu con?- Dạ. hăm mốt ngàn, chú đưa con hai chục cũng được, thấy tội nghiệp tôi đưa luôn hai lăm ngàn và không lấy lại tiền thối.- Dạ! con xin cảm ơn
Dù có thoáng chạnh lòng trước cảnh đời khốn khó của con bé đến đâu tôi cũng phải quay về nhà, nơi buổi sinh nhật con gái bé bỏng sắp được diễn ra trong ít phút nữa. Trong căn nhà ấm cúng, có mẹ có cha, có bạn bè đồng lứa, vẻ mặt con gái tôi ngời ngời mãn nguyện. Ba chiếc bóng bay tôi mang về đủ màu sặc sỡ giờ không còn có gió để đùa, chỉ lắc lư tí đỉnh để làm vừa lòng bọn trẻ.
Sáng đi làm, từ lầu hai nơi tôi làm việc nhìn xuống cách cổng cơ quan khoảng chừng ít mét thoáng thấy một chùm bóng bay sặc sỡ, chợt nghĩ có khi tình cờ lại là con bé hôm qua, tôi thong thả xuống lầu để đến nơi bán bóng.
Nhác thấy tôi con bé mừng rỡ: Ủa! chú,.. mua.., chỉ nói được tới đấy rồi im bặt có lẽ nhớ lại hôm qua tôi mua rồi thì giờ mua làm chi nữa, lại gần hỏi chuyện mới biết được con bé tên Thanh quê ở Tịnh Khê, Sơn Tịnh Quãng ngải, mười tuổi lưu lạc vào đây kiếm sống được hơn năm.
- Gia đình con ở đâu?- Dạ ở miền biển xa lắm.- Ba má đâu mà con phải đi xa bán thế này?- Dạ, ba con mất ở biển không thấy về, mẹ bỏ hai chị em con đi đâu mất tiêu rồi.
Ông Trời như cố tình sáng tác ra những mảnh đời trái dấu nhau để buộc con người phải sống với muôn sắc muôn màu, kẻ thì màu hồng màu xanh, kẻ thì cả đời bám riết với màu đen màu xám. Và hình như ông trời cũng muốn cố tình tạo nên những cảnh đời oái ăm để buộc con người phải hiểu cho được những ngôn từ ít khi được nhắc như “Trắc ẩn”, “Thương xót thương nhau là gì?”.- Con bán bóng thế có thích chơi bóng không? Con bé cười lõn lẽn đáp: Dạ thích, nhưng con thích bóng bay lên trời hơn là cầm bóng trên tay.
Trước khi trở lại nơi làm việc, tôi cho con bé địa chỉ: - Chiều nay con dành lại hai chiếc đem tới nhà chú mua.- Dạ, đường xá ở đây con rành lắm.
Chiều về đến nhà đã thấy con bé ngồi chờ sẵn trước cổng với hai chiếc bóng trên tay, mở khóa cổng, khoá cửa nhà: Vào đây con. Con bé ngại ngùng lắc đầu nguầy nguậy: Dạ con không dám đâu, con đứng đây cũng được. Chưa biết tính sao thì vừa lúc vợ tôi chở bé Lam đi học về, thấy bóng bay con bé vòi: Bố mua cho con chơi.- Ừ bố mua nhưng cho con một chiếc và chị Thanh đây một chiếc. Bé Lam tròn mắt ngạc nhiên: Chị đây bán bóng mà bố.- Ừ thì bán nhưng đâu có được chơi bóng như con đâu?
Cũng may vợ tôi vốn hiền hậu phúc đức nên hiểu ngay: Con bán cho cô hai quả, trao cho bé Lam một, quả còn lại vợ tôi dúi vào tay bé Thanh, tội nghiệp con bé lúng túng thấy rõ, lâu nay ngày nào cũng cầm hàng chục quả bóng trong tay lê la khắp phố phường chào bán nhưng nào có quyền sở hữu một quả bóng cho riêng mình, con bé chớp chớp mắt định khóc nhưng chỉ là thoáng qua rồi nét mặt trở lại bình thường.
Gương đôi mắt trẻ thơ nhưng đượm hai sắc màu, non nớt pha lẫn nét bươn chải nhìn vợ chồng tôi, bé Thanh ngập ngừng: Xin phép cô chú cho con được thả nghen? Tôi thì không nhưng vợ tôi và bé Lam thoáng có chút ngạc nhiên.- Con cứ thả đi.
Bàn tay nhỏ bé nhẹ nhàng buông sợi chỉ, như buông đi điều gì đó không phải của mình, quả bóng chờn vờn bay lên cao, không phải chỉ có đôi mắt bé Thanh ngước lên mà cả ba đôi mắt của tôi, vợ tôi và bé Lam cũng ngước nhìn theo.
Quả bóng mất hút, bé Thanh xin phép về, bé Lam cầm chặt sợi chỉ có quả bóng trong tay, tôi biết con mình không dám thả như bé Thanh. Tôi hiểu nổi lòng của con bé bán bóng, quả bóng được bơm vào để làm chi, có phải để cho bay lên thế thì tại sao lại cột vào sợi chỉ, bắt nó phải ở lại với một khoảng cách nhất định nào đấy, có phải con người thích sở hữu, thích chiếm đoạt về phần mình nhiều hơn, về phần bé Thanh thì chẳng có gì, mẹ, cha có cũng như không, đồng tiền nhọc nhằn kiếm được từ từng quả bóng đủ để lây lất nuôi thân và em ở quê nhà. Vậy nó giữ quả bóng để làm gì, nó cần phải thả đi để gởi về cho em nó hoặc là gởi về cho cha nó ở biển sâu và biết đâu nó muốn gởi quả bóng lên trời cao như là một lá thư nhắn cho mẹ nó biết rằng: Mẹ ơi trên đời vẫn còn có con đây, mẹ hãy trở về.
Đôi khi người lớn cũng cần phải học chuyện đời từ những đứa trẻ con như thế.
H.L

Thứ Bảy, 13 tháng 12, 2008

Tây mở quán








Ngồi quán

Nhà văn Bích Xuân (bên trái ảnh) và một cô tiếp viên gốc Nhật.

Paris nổi tiếng lâu nay về những quán café. Sang trọng cũng lắm, quán cóc cũng nhiều.
Ngồi quán café có cái thú của nó. Có thể hóng chuyện của người khác, kể lể chuyện của mình hay trầm ngâm thả hồn phiêu bạt. Gần đây với lượng người Việt mỗi ngày một đông, những quán café Việt mọc ra nhiều hơn, nhộn nhịp hơn. Cũng có những quán tưng bừng khai trương, âm thầm đóng cửa nhưng ít nhiều cũng thêm hương sắc phố phường.
Tôi đến quán vài lần, lúc đầu, một mình một bàn, sau thì bàn của tôi không còn chỗ để thêm ghế. Họ tưởng tôi "buồn tình" hay "sầu đời" nên vào đây mượn hương đưa của rượu để tiêu sầu.Tuy gọi là tiệm café nhưng tiệm có bán thức ăn, rượu mạnh, cá ngựa, lôtô, game... Tiệm café có hầm bà làng như vậy là loại tiệm bình dân. Tiệm café của Tây là ra vẻ của Tây liền: Ngăn nắp, bài bản, trật tự và trang trí trang nhã hơn.Tiệm café của người Á châu vẫn cái vẻ luộm thuộm muôn thuở, chỉ khác là có những chàng Tây đang đứng làm việc ở quầy rượu.Tiệm café tôi vào lần này ngay trung tâm khu vực của người Á châu, chung quanh là những nhà hàng và các siêu thị buôn bán tấp nập. Tiệm này luôn luôn đông khách cả Tây lẫn ta, có trật tự hơn và may mắn là gần bên đồn cảnh sát. Quán có tên LiLy's café có ca nhạc vào chiều thứ bảy và chủ nhật, từ 2 giờ đến 8 giờ tối. Một nhạc sĩ kiêm ca sĩ Văn tấn Phát lừng danh một thời. Anh hát đủ thứ tiếng, Việt, Pháp, Anh, Lào, Thái... Mùa hè, có bàn để ngoài hiên dành cho khách hút thuốc. Giá không đắt không rẻ: Một ly bia 3,50 euro, chai Cocacola 3,50 euro, ly kem cũng 3,50 euro, café xíu 2,50 euro. Café ở phố sang thì 5 euro. Còn rượu thì 4,45 euro đủ giá và tuỳ loại rượu. Người Việt ở Mỹ sang Paris lần đầu thấy ly café đậm đặc bé tí không khỏi ngạc nhiên...
Vừa uống vừa đọc sách báo tại quán là thú vui của người Paris.

Những câu chuyện người, chuyện đờiKhoảng 6 giờ chiều, tiệm trở nên thưa khách dần. Số khách còn lại đa số là đàn ông, là đàn ông độc thân, đàn ông có vợ, đàn bà có chồng... Người độc thân, cô đơn, buồn là chuyện dĩ nhiên, nhưng người có chồng, kẻ có vợ mà cũng lắm chuyện nặng nề. Họ tìm đến nơi đây chắc uống rượu cho say, để quên nỗi niềm, nhưng chả quên được gì mà còn hao xu và say nghiêng say ngả, còn mối sầu thì vẫn trơ trơ...Một chị khoảng 35 tuổi, có mái tóc mun dài, mặc chiếc áo đỏ thẫm nổi bật trên khuôn mặt hốc hác của người thiếu ngủ, chị từ VN sang Pháp được hai năm nay, buồn quá chị đâm ra uống rượu.Hôm nay, chị đến ngồi cùng bàn với tôi, tôi biết chị sắp nói gì nên yên lặng nghe chị kể lể: Ông chồng chị 70 tuổi, ở Pháp về VN, gặp chị, bị tiếng sét tình ái đánh trúng, nên ông cưới chị đem qua Pháp.Sang Pháp, chị năn nỉ ông chồng xây lại căn nhà cho bà mẹ hiện đang ở VN, có tiếng lấy chồng Việt kiều mà để mẹ ở căn nhà xập xệ "mất mặt" với bà con quá! Ông chồng chiều vợ, bay về VN xây nhà cho mẹ vợ.Nhà mẹ vợ xây xong, chị nhận được thư chồng thú thật là tiếng sét ban đầu là tiếng sét dỏm. Bây giờ ông mới bị trúng tiếng sét thiệt, mà "người ấy" không ai khác chính là bà... mẹ vợ kém ông 10 tuổi, ông xin lỗi cô và tình nguyện ở lại VN luôn.Biết mẹ già có người thương yêu, chị mừng cho mẹ, nhưng trong lòng vẫn xót xa, dầu thực lòng chị cũng không nặng tình gì lắm với ông chồng già.Xin kể tiếp câu chuyện thứ hai. Một người đàn ông 45 tuổi, có vợ đang ngồi đối diện trước mặt tôi, buồn rầu thổ lộ lấy vợ 20 năm nay, đùng cái, từ 3 năm nay bà vợ không cho ngủ chung giường, không cho ông đụng đến người, khi nào vợ bị nhức mỏi trong người ông mới được cầm tay, cầm chân vợ, không phải để vuốt ve, âu yếm mà để thoa dầu cù là mátxa cho vợ. Ăn thì ăn chung, ngủ thì ngủ riêng.Ông báo với... cảnh sát, nhưng cảnh sát bảo ông tự giải quyết lấy. Ấm ức lắm nhưng ông không đủ can đảm làm gì được. Ông than thở nào con, nào nhà, nào tiệm, ôi thôi đủ thứ nó ràng buộc... thôi thì đành ngậm bồ hòn, thỉnh thoảng lén đi "ăn chè" cho đỡ thèm... Thôi chào anh nha, tôi phải đi mua cái áo gilê có màu đom đóm và tấm bảng tam giác kẻo hết.Cái áo màu đom đóm hùng quang, để chủ xe khoác con đom đóm trên lưng và tấm bảng tam giác lưỡng sắc óng ánh dựng sau đít xe khoảng 30m khi bị xe chết máy giữa xa lộ. Luật của Pháp ban hành, bắt buộc tất cả chủ nhân xe hơi, phải có trên xe hai vật cần thiết này, để bảo an ninh cho người lái xe, lỡ khi xe bị chết máy giữa đường.Nếu không có 2 món này trên xe sẽ bị phạt 135 euro, trừ khi trả gấp trong hai tuần chỉ 90 euro. Tấm bảng tam giác để phía cốp xe, còn áo đom đóm thì luôn luôn để phía trước, lý do dễ hiểu là khi bị cảnh sát chặn xét mà chủ xe nhảy ra sau xe để trình con đom đóm thì sẽ bị phạt liền. "Kỹ thuật" thương mạiNgồi quán ở các tiệm khác để biết những sinh hoạt trong quán ở đây ra sao. Được biết khách quen tiệm nào thì đến tiệm đó, có người như "mua chết" luôn cái bàn ở trong tiệm. Tôi nghe những cái tên thật lạ: "Khách rượu" và "khách một ly". "Khách rượu" là hết ly này đến ly khác, rồi chai này đến chai khác... "khách một ly" là khách chỉ kêu một ly bia, rượu hay café, nghe nhạc cho đến giờ phút cuối.Tôi để ý chủ tiệm café này không tỏ vẻ gì khó chịu với "khách một ly" cả. Khách vào tiệm là vợ chồng anh ta vui vẻ, lúc nào cũng có nụ cười trên môi rất nhiệt tình để đón khách. Chủ quán biết cách xã giao nên mỗi ngày quán của họ càng có thêm khách mới.
Một nhóm người gốc Việt.



Nhưng có những tiệm xã giao kém, thường thường là quán ca nhạc người Việt, ví dụ: Một nhóm vào vũ trường họ uống từ 3 đến 5 chai Remi Martin là chuyện thường (90 euro/chai). Chủ tiệm, cả người làm, tử tế đến tận bàn bắt tay, chào hỏi rất thân thiết. Khách nào không uống rượu, hôm đó kể như là những người âm thầm trong "bóng tối". Chủ, và cả nhân viên phục vụ đều tỏ ra hờ hững cho dù khách đã từng ghé tới đây nhiều lần.Chung quanh khu vực Á châu này, tiệm gì của người Tàu mở cửa lớn, nhỏ đều nườm nượp khách. Thức ăn ngon, chứng tỏ thợ bếp cao tay nghề, mấy anh chạy bàn cũng gốc Tàu, nhưng đa số là khách Việt, kể cả ban nhạc và ca sĩ cũng là người Việt.Khách Việt chịu ăn chơi, chịu nhảy nhót. Khách người Tàu đa số đến ăn uống xong là về, ít khi nào họ ở lại.Còn nhà hàng ca nhạc Việt cứ thay đổi người nấu bếp luôn luôn, mỗi lần khách kêu món ăn cũ nhưng mùi vị lại khác. Bữa đực, bữa cái. Có tiệm, thấy đông khách, thức ăn giảm lại, nhưng giá tiền lại tăng lên, riết nhà hàng chỉ còn lại toàn khách người Pháp.Tiệm Việt có nhiều khách Việt là tiệm đó thức ăn ngon. Thức ăn ngon mà chủ cứ nghênh nghênh mặt lên trời thì khách cũng không muốn vào.Một lần khác, tôi cùng hai người bạn vào một tiệm phở Việt, lúc đó 9h30 tối, vừa lúc đó, có một cặp khác cũng bước vào quán. Chủ quán nói bây giờ chỉ còn mỗi món phở thôi. Tôi nói chúng tôi muốn ăn phở mà...Đúng 9h40, tất cả những tô phở được đem ra một lúc. 9h50 vừa gắp vài đũa thì đèn đuốc bỗng tắt đui, chỉ chừa một ngọn đèn nơi bàn chúng tôi. Người chạy bàn vừa tắt hết đèn, vừa nói lớn để cho khách nghe: "10 giờ là tiệm chúng tôi đóng cửa nghe!" Tôi nhìn đồng hồ lúc đó 9h55. Anh ta bỗng lấy tô phở của tôi, tôi ngạc nhiên: "Tôi chưa ăn xong mà!". Anh ta đặt lại và nói xin lỗi. Nhưng chỉ 5 phút sau, đúng 10 giờ anh chạy bàn chạy ta đem giấy tính tiền đến bàn chúng tôi, và thông báo đã tới giờ tiệm đóng cửa. Chúng tôi chưa ăn xong, nước cũng chưa kịp uống. Anh bồi bàn chỉ tấm bảng treo ngoài cửa rồi nói: "Tiệm có ghi đóng cửa 10 giờ tối ngoài cửa kia kìa". Tôi nói: "Nếu vậy lúc chúng tôi vào anh không nên nhận khách". Cặp vợ chồng người Pháp ngồi bên cạnh cũng bất mãn, ông người Pháp nói: "Chúng tôi vào đây chỉ để trả tiền rồi đi ra sao? Tôi đã từng ăn ở nhà hàng Á châu, đây là lần đầu tiên tôi thấy chuyện này...".10h10, chúng tôi bỏ lại những tô phở đang ăn dở còn đang bốc hơi.
Nhà văn Bích Xuân



(LĐCT)

Thứ Hai, 8 tháng 12, 2008

Nhà thơ màu đỏ



Như không hề có cuộc chia ly
Đó là câu cuối bài thơ “Cuộc chia ly màu đỏ” của nhà thơ liệt sĩ Nguyễn Mỹ - một trong 100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX sống mãi cùng năm tháng trong lòng bạn đọc yêu thơ nhiều thế hệ.
Câu thơ ấy được Đài truyền hình Việt Nam chọn làm tiêu đề cho một chương trình đoàn tụ đầy cảm động làm rung động trái tim hàng triệu người xem. Người con ưu tú đất Phú Yên - nhà thơ tài hoa Nguyễn Mỹ là cựu học sinh Lương Văn Chánh, sinh trưởng trong một gia đình nông dân nghèo, tài hoa ở xã An Nghiệp huyện Tuy An, có người anh là nhạc sĩ Nhật Lai nổi tiếng trong kháng chiến chống Pháp. Năm 1952, chàng trai Nguyễn Mỹ theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc “xếp bút nghiên lên đường tranh đấu”, xung phong vào quân đội khi vừa 16 tuổi.

Những năm tháng tập kết ra Bắc, Nguyễn Mỹ đóng quân ở Nghệ An và từ năm 1957 có thơ đăng rải rác ở các tờ báo danh tiếng của Thủ đô. Năm 1960, Nguyễn Mỹ chuyển ngành học Đại học Văn, công tác ở Nhà xuất bản phổ thông, tiếp tục làm thơ và thành danh với kiệt tác “Cuộc chia ly màu đỏ” in lần đầu trên Báo Văn nghệ năm 1964 và được tập hợp trong tập Sức Mới 1 (1965) và in chung thành tập với “Sắc cầu vồng” của Nguyễn Trọng Định.

Thời ấy, cả miền Bắc nôn nao những cuộc chia ly bi tráng tiễn người ra trận. Chứng kiến những giây phút thiêng liêng cảm động của người chị dâu tiễn anh trai - nhạc sĩ Nhật Lai vào chiến trường năm 1962 - và các đôi lứa yêu nhau phải tạm xa nhau không hẹn ngày về một thời lửa đạn, Nguyễn Mỹ đã tạc vào thơ những cuộc chia ly thời chống Mỹ với những vẻ đẹp tâm hồn lung linh của kẻ ở người đi bằng bút pháp trữ tình lãng mạn cách mạng làm lay động lòng người. Bởi chính tác giả cũng trở thành nhân vật. Năm 1968 anh trở về Nam chiến đấu, có điều cuộc chia ly ấy thiếu một màu áo đỏ, anh chưa có một mối tình đúng nghĩa mà chỉ phảng phất trong thơ như khói như sương ở dạng đơn phương. Mãi mãi nằm xuống bên bờ sông Đăkta (Trà My - Quảng Nam) ngày 16/5/1971 ở tuổi 35 khi tài năng đang chín rộ, Nguyễn Mỹ vẫn chưa có một bóng áo đỏ của riêng mình bởi chiến trường khắc nghiệt không có chỗ để tìm hiểu, mơ mộng, yêu đương.

Nhiều bài thơ về đề tài tiễn người ra trận của những tác giả cùng thời đã chìm vào lãng quên sau khi hoàn thành nhiệm vụ cổ động vinh quang. Còn “Cuộc chia ly màu đỏ” thì “Như không hề có cuộc chia ly” vẫn “Trên dốc cao vẫy gọi đoàn người” bởi những giá trị thơ ca đích thực. Hình tượng cuộc chia ly trong thơ đan xen giữa chi tiết thực và siêu thực. Nước mắt chảy là thực, “Chảy trên bình minh đang hé giữa làn môi” là siêu thực, là khát vọng làm ấm lòng người ra đi, chia ly mà không nhuốm chất bi, vẫn khát khao ngày đoàn tụ khi nghiệp lớn giải phóng dân tộc hoàn thành. Những giọt nước mắt “long lanh nóng bỏng, sáng ngời” lung linh trong tia nắng “rạng đông bừng trên nét mặt” như bừng lên sinh khí quanh “Cây si xanh gọi họ đến ngồi. Trong bóng rợp của mình, nói tới ngày mai”.

“Khi Tổ quốc cần, họ biết sống xa nhau” chính là sợi chỉ đỏ xuyên suốt chủ đề tư tưởng của tác phẩm và “Cái màu đỏ như cái màu đỏ ấy” mãi mãi đi theo bước chân người lính cho đến ngày toàn thắng.

Kỷ niệm 33 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, PYCT trân trọng giới thiệu ba bài thơ của Nguyễn Mỹ như ba nén hương lòng tưởng nhớ một người con tài hoa của quê hương, đất nước đã vĩnh viễn ngã xuống cho Tổ quốc quyết sinh và để nói rằng thơ ca đích thực trường tồn cùng năm tháng.

Cuộc chia ly màu đỏ

Đó là cuộc chia ly chói ngời sắc đỏ
Tươi như cánh nhạn lai hồng
Trưa một ngày sắp ngả sang đông
Thu, bỗng nắng vàng lên rực rỡ
Tôi nhìn thấy một cô áo đỏ
Tiễn đưa chồng trong nắng vườn hoa
Chồng của cô sắp sửa đi xa
Cùng đi với nhiều đồng chí nữa
Chiếc áo đỏ rực như than lửa
Cháy không nguôi trước cảnh chia ly
Vườn cây xanh và chiếc nón trắng kia
Không giấu nổi tình yêu cô rực cháy
Không che được nước mắt cô đã chảy
Những giọt long lanh, nóng bỏng, sáng ngời
Chảy trên bình minh đang hé giữa làn môi
Và rạng đông đã bừng trên nét mặt
Một rạng đông với màu hồng ngọc
Cây si xanh gọi họ đến ngồi
Trong bóng rợp của mình, nói tới ngày mai
Ngày mai sẽ là ngày sum họp
Đã tỏa sáng. Những tâm hồn cao đẹp
Nắng vẫn còn ngời trên mắt lá si
Và người chồng ấy đã ra đi...
Cả vườn hoa đã ngập tràn nắng xế
Những cánh hoa đỏ vẫn còn rung nhè nhẹ
Gió nói tôi nghe những tiếng thì thào
“Khi Tổ quốc cần, họ biết sống xa nhau!”

Nhưng tôi biết cái màu đỏ ấy
Cái màu đỏ như cái màu đỏ ấy
Sẽ là bông hoa chuối đỏ tươi
Trên đỉnh dốc cao vẫy gọi đoàn người
Sẽ là ánh lửa hồng trên bếp
Một làng xa, giữa đêm gió rét...
Nghĩa là màu đỏ ấy theo đi
Như không hề có cuộc chia ly...
9/1964

Giấc mơ xanh

“Lẻ loi như cụm núi Sầm
Thản nhiên như mặt nước đầm Ô Loan”
(Ca dao Phú Yên)

Giấc mơ xanh còn xanh mãi của tôi
Là Ô Loan đầm nước trong ngời
Tôi như con sóng nhoài trên biển
Mẹ gọi về đây nghỉ chút thôi

Mẹ đặt đầu tôi trên lưỡi cát
Chắn ngang biển lớn đến tìm tôi
Ru tôi mẹ hát bài dương liễu
Rắc ước mơ vào trong sóng khơi

Cha già như bóng núi trầm ngâm
Như dáng trầm tư cụm núi Sầm
Rêu xanh như thể chưa hề chứa
Dáng dấp đời xuân ngọn sóng thầm

Giấc mơ xanh còn xanh mãi của tôi
Là Ô Loan, đầm mẹ sáng ngời
Con đi, mẹ nhé, triều đang gọi
Nâng giấc mơ lên tới đỉnh trời.
1966
(Viết tại xưởng phấn Nguyễn Diên bên hồ Trúc Bạch - Hà Nội)

Tuy An

Núi Ông lom khom, núi Bà đội nón
Hòn Chiêng hòn Trống chiều sớm ngân nga
Ôi Tuy An, núi với người chen chúc
Nhộn nhịp sắc màu mảnh đất vang ca...

Những thung vui sớm chiều nghe biển gọi
Núi khép vòng tay không muốn người đi
Người cưỡi núi thúc chồm ra tận biển
Hòn Yến đỏ ngời giữa sóng xanh say

Những làng xóm quây quần trong thung biếc
Sắn, mía, đậu, gai trèo ruộng bậc thang
Làng trên núi, giếng Tiên trên núi
Tiếng hát lô vần vụ những chim đàn

Đất Hòa Đa đen mà sinh bông trắng
Rừng cà phê chín đỏ đất An Xuân
Xoài Đá Trắng, hồ tiêu Trà Né
Cá mắm Tiên Châu, nếp Tượng đồng Trong

Đất vui quá! Đến sông còn bịn rịn
Sắp tới biển rồi còn mở tay ôm...
Biển vào Ô Loan nằm ngủ thiếp
Sò huyết sinh trong đáy giấc mơ xanh
Hãy nhớ về đầm Ô Loan bạn nhé!
Trời, đất tinh trong cho bạn thấy trái tim mình...

Ba Đà Rằng

Em ơi, rau mầm



Đại gia rau mầm
NGUYỄN CẦU

Nhờ áp dụng công nghệ sinh học, ông Nguyễn Minh Trường ở tổ 12, phường Bình Thuận, quận Hải Châu, TP Đà Nẵng đã sản xuất thành công rau mầm, loại nông sản siêu sạch, chỉ 4-5 ngày kể từ khi gieo hạt là thu hoạch.
Hiện cơ sở này cung cấp cho thị trường 50-60 kg rau mầm mỗi ngày. Với giá 35 nghìn đồng/kg, trừ hết mọi chi phí, lãi trên 700 nghìn đồng/ngày, ông Trường cho biết. Và ông đã tận dụng tối đa diện tích ngôi nhà cuối hẻm nhỏ đường Hoàng Diệu để làm nơi sản xuất. Bàn ghế phòng khách cũng dẹp sang một bên nhường chỗ cho giá đựng rau mầm. Ông cũng từ giã luôn nghề thợ điện gắn bó hàng chục năm để chuyển sang nghề sản xuất rau cao cấp này.
Thực ra, rau mầm được nông dân TP Hồ Chí Minh sản xuất từ nhiều năm nay. Ở Đà Nẵng, ông Trường là người đầu tiên sản xuất và đã hướng dẫn cho nhiều người khác cùng làm theo. Khi sản phẩm mới lạ này tạo dấu ấn trên thị trường, Trung tâm Khuyến ngư nông lâm, Phòng Kinh tế quận Hải Châu, yêu cầu ông tập huấn cho nông dân. Không giấu nghề, ông Trường chuẩn bị chu đáo về tài liệu và đứng lớp hướng dẫn cho hàng trăm nông dân. Sau đợt tập huấn đó, việc sản xuất rau mầm ở Đà Nẵng rộ lên. Đến nay, ít nhất có 40-50 cơ sở lớn nhỏ, mỗi ngày cung cấp cho thị trường hàng tấn rau chất lượng cao.
Hoá ra quy trình sản xuất rau mầm không có gì phức tạp, ai cũng làm được. Người ta dùng khay xốp (tận dụng khay đựng quả), trải lớp giá thể (đất sạch) dày 2-3 cm. Trên đó trải tiếp lớp giấy thấm. Rải đều hạt giống đã ngâm ủ với mật độ dày, để vào chỗ râm mát. Rồi cứ thế, ngày 2 lần tưới nước với mức độ vừa phải. 4-5 ngày sau, mầm rau lên cao 5-6 cm là thu hoạch. Rau mầm chỉ hút nước để sinh trưởng nên đây là loại rau siêu sạch. Theo ông Trường, cái khó là sản xuất được đất sạch để ươm gieo. Nguyên liệu chính của đất sạch là xơ dừa. Sau khi xay nhỏ, khử tạp chất, ủ vi sinh 4-5 ngày là đưa ra sản xuất. Hiện tại, ông tập trung cho việc sản xuất đất sạch, đáp ứng nhu cầu trồng rau mầm ngày càng cao trong nông dân. Theo ông Trường, quy trình sản xuất rau chỉ ít tiếng đồng hồ là nắm bắt được, đối với quy trình chế biến đất sạch phải học mấy tuần là chế biến thành công.
Hiện tại, đại gia rau mầm này suốt ngày bận rộn. Suốt ngày ông đến các cơ sở sản xuất mới hướng dẫn kỹ thuật. Có lúc ngồi cả buổi hướng dẫn qua điện thoại. Anh Võ Xuân Sơn, ở tổ 11, phường Hoà Cường Nam rất phấn khởi khi việc sản xuất rau mầm đem lại thu nhập cao. Anh Sơn tâm sự: ông Trường rất tận tình. Không chỉ chuyển giao kỹ thuật mà ông còn cung cấp các dụng cụ và đất sạch, giống để sản xuất. Hiện tại, ngoài mầm cải cơ sở còn sản xuất rau muống, dền đỏ, mồng tơi mầm. Ở Hoà Cường Nam này, ông đã hướng dẫn nhiều hộ nông dân, ai cũng sản xuất đạt hiệu quả cao.
Điều ông Trường trăn trở nhất hiện nay là sản phẩm rau mầm chưa được cơ quan chức năng quan tâm kiểm tra cấp giấy chứng nhận rau sạch। Trong khi siêu thị rất cần sản phẩm này nhưng đòi hỏi phải có giấy chứng nhận của cơ quan chức năng. Ông và một số chủ cơ sở đã có đơn kiến nghị, nhưng vẫn chưa được giải quyết. Hi vọng cơ quan chức năng sớm giải toả khó khăn nêu trên cho những người sản xuất rau mầm nói riêng, rau an toàn nói chung.

(NNVN)

Nhạc sĩ số 1 Phú Yên

Nhật Lai và Hà Tây quê lụa
“Hà Tây! Vọng gác thủ đô! Cô gái Suối Hai chàng trai Cầu Giẽ”... Ít ai biết, tác giải của bài Hà Tây quê lụa - “tỉnh ca” của Hà Tây - lại là một nhạc sĩ quê tận Phú Yên - nhạc sĩ Nhật Lai (đã ra đi vào năm 1987). Tên thật của ông trùng với tên của nhà văn Nguyễn Tuân, nhưng vì trông rất giống người Nhật Bản nên bị bạn bè gọi đùa là...“lai Nhật”, từ đó mà thành bút hiệu Nhật Lai. Ông chính là anh trai của nhà thơ Nguyễn Mỹ - tác giả của Cuộc chia ly màu đỏ bất hủ.
Nhạc sĩ Nhật Lai.Cách đây ít lâu, tôi nhận được một cuốn sách do người bạn gửi tặng. Đó là tập sách nhạc, tuyển chọn 64 ca khúc được chọn làm “tỉnh ca” của các tỉnh, thành phố trong cả nước. Cuốn sách mang tên Đường tôi đi dài theo đất nước, thật giống như một chuyến tàu, chở âm nhạc băng qua bao suối bao sông, bao đồng bao biển để từ Tây Bắc, Đông Bắc về đồng bằng Bắc Bộ, vào miền Trung, vượt lên Tây Nguyên, ghé qua miền Tây Nam Bộ rồi xuống đất Mũi Cà Mau. Khi mở tập sách nhạc này, tôi đã dừng lại khá lâu bên bài Hà Tây quê lụa và hát vang khúc “tỉnh ca” mà nhạc sĩ Nhật Lai đã viết. Ông đâu ngờ bài hát này đã được chọn làm nhạc hiệu của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Tây. Bài “tỉnh ca” ấy đã khắc sâu vào tâm hồn và trở thành một thứ tài sản phi vật thể, thành niềm tự hào của cư dân xứ Đông, xứ Đoài…; thành nỗi nhớ quê của kẻ dứt áo ra đi - mà tôi cũng chỉ là một.

Tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Nhật Lai rất phong phú. Về nhạc múa, có thể kể: Rông chiêng, Đi săn, Phiên chợ Chămpa, Tiếng trống Chăm H’roi.. Ca kịch, ca cảnh có: Mơnông Ti pri, Ama Trang Lơng, Thử lửa… Khí nhạc có: Vũ khúc Tây Nguyên, Giao hưởng đất lửa… Nhạc kịch có Bên bờ Krông Pa… và hàng chục ca khúc như: Hà Tây quê lụa, Cánh chim lạc đàn, Bài ca anh Hồ Giáo, Mặt trời Êđê… Ngoài ra, ông còn sưu tầm, chỉnh lý hàng chục bài dân ca Jrai, Bana, Êđê, H’rê, sáng tác nhạc cho phim…Đêm nay tôi tìm lại cuốn sách bạn gửi tặng hôm nào, lật mở trang 84+85, gặp lại những câu nhạc mượt mà của nhạc sĩ Nhật Lai và biết rằng, khi tái bản cuốn sách Đường tôi đi dài theo đất nước, dù yêu biết bao, dù thích nhường nào, bạn tôi cũng bỏ đi bài hát ấy. Nếu để bài hát ở đó, sẽ là một sai sót của người biên tập, vì Hà Tây đã thuộc về Hà Nội… Nhưng mà đó là chuyện của mai này, là công việc của người làm sách. Khi biết tin Hà Nội có thêm Hà Tây, tôi lấy xe đi qua gốc gạo làng, ra với cánh đồng lúa vẫn như đang rì rào kể chuyện, và chợt nhớ đến Nhật Lai. Ông đã viết Hà Tây quê lụa cho chúng tôi bằng một trái tim nhiều thương mến: “Bóng chiếc thoi đưa ánh mắt long lanh/ Trời đất Hà Tây, tay em dệt lụa/ Sữa trắng Ba Vì thóc vàng Khu Cháy, hồn thơ Nguyễn Trãi dệt thành vần/ Sông Tích, sông Đà giăng lụa mênh mông…”. Ông đã viết Hà Tây quê lụa bằng cái nhìn xanh non của một cư dân vùng đất Phú Yên bốn mùa nắng gió. Tôi đã đọc được ở đâu đó và nhớ như in rằng, nhạc sĩ Nhật Lai sinh năm 1931 ở làng An Nghiệp, Tuy An (Phú Yên). Ông có một cái tên khai sinh thật dễ nhớ, vì trùng với bút danh một nhà văn lớn của Việt Nam: Nguyễn Tuân. Chẳng phải vì “sợ” tên tuổi lớn đó mà ông tìm cho mình một tên gọi khác, mà chỉ đơn giản là ông trông giống người Nhật Bản, nên bạn bè thường nói đùa ông là… lai Nhật. Lâu dần, tiếng gọi “Nhật lai” trở thành bút danh Nhật Lai và được ký dưới những trường ca, nhạc kịch hay ca khúc. Ông cũng chính là anh trai của nhà thơ Nguyễn Mỹ - tác giả bài thơ nổi tiếng Cuộc chia ly màu đỏ...

Năm 1954, nhạc sĩ Nhật Lai tập kết ra Bắc, chính thức hòa nhập vào cuộc sống cùng nhân dân miền Bắc. Vì lẽ ấy ông rất hiểu cuộc sống của người dân miền Bắc thời kỳ đó. Trong những năm máy bay Mỹ đánh phá miền Bắc, ông xót xa trước cảnh những cánh đồng lúa xanh bị bom đạn cày phá. Từ thực tế cộng thêm nhiều trải nghiệm, Nhật Lai đã xúc động đặt bút viết ca khúc Hà Tây quê lụa. Đó là năm 1965. Giai điệu của bài hát mềm mại, êm mát như tấm lụa làng Vạn Phúc. Thật xúc động biết bao khi nghe tiếng hát nghệ sĩ Quốc Hưng ngân lên da diết: “Đan Phượng ơi! Quê hương người gái đảm/ Đồng hợp tác xanh tươi cấy dày thẳng tắp, anh phi công bàng hoàng ngỡ mình bay trên gấm vóc... Hà Tây, cửa ngõ Thủ đô/ Áo giáp chở che ngàn năm bền vững...”.

Tạo hóa ban cho đất Hà Tây thật nhiều cảnh đẹp: Hương Sơn có suối Yến lững lờ, xứ Đoài mây trắng, sông Tích, sông Đáy hiền hòa trôi xuôi như những dải lụa mềm vắt qua vùng gấm vóc. Mỗi khi bài hát vang lên, ta như được nhìn thấy những em gái má hồng môi đỏ ngồi quay xa dệt lụa, như được tham gia vào một chuyến du ngoạn qua những địa danh nổi tiếng của Hà Tây bằng chiếc xe âm nhạc.

Bây giờ, với quyết định nhập toàn bộ tỉnh Hà Tây về Hà Nội, Hà Tây quê lụa sẽ không còn là một bài “tỉnh ca” nữa. Rồi đây nó sẽ sống một đời sống tự do hơn. Bức tranh bằng âm nhạc về một vùng đất của Việt Nam với lụa là gấm vóc, với “sông Tích, sông Đà giăng lụa mênh mông…” đã khắc sâu trong lòng người yêu nhạc, như một kỷ niệm khó mờ phai…

(Theo PYO)


Nhật Lai(1931-1987)
Thầy dạy chính của tôi là những dàn cồng, dàn chiêng, những dàn trống dân tộc, những bài dân ca, những điệu dân vũ... Nhật

Nhật Lai, tên thật là Nguyễn Tuân, sinh ngày 12-5-1931, tại Tuy An, tỉnh Phú Yên trong một gia đình tiểu thương। Cha là thầy lang, kiếm sống tạm đủ với nghề bốc thuốc. Họ hàng bên nội giàu sang, không con cái nên luôn tìm cách lôi kéo cậu cả Tuân và em trai (sau này là nhà thơ Nguyễn Mỹ[1]) về phía nội để làm người nối dõi tông đường. Mọi cách thuyết phục, kể cả sự “mua chuộc” bằng tiền bạc của họ nội mãi chẳng thành. Trước “hai phe” đối lập nội ngoại không chỉ ở sự giàu nghèo, mà còn vì quan điểm khác nhau, gia đình chú bé Tuân lúc đầu còn trung lập “đứng cửa giữa”, về sau nghiêng hẳn về bên ngoại nghèo, tài sản chẳng có gì ngoài một thứ gia truyền đáng quý: tài nǎng âm nhạc. Ông ngoại từng là thầy dạy nhạc trong triều đình Huế, nhiều ông cậu bà dì là những nghệ nhân đờn ca nhạc cổ, riêng trong nhà hợp lại cũng đủ một dàn nhạc lễ. Họ vô tình đan kết thành cái nôi âm nhạc bao bọc lấy tuổi thơ của bé Tuân, một tuổi thơ ngày ngày được nghe, được tập đàn hát những bài dân ca, tuồng cổ. Hiếu động, hiếu thắng, nhưng rất mơ mộng và giàu trí tưởng tượng, cậu bé còn sớm bộc lộ khả nǎng tổ chức hoạt động vǎn nghệ, thích tụ hợp lũ nǎm lũ bảy nổi đình nổi đám với các cuộc hát ca, chơi đàn, diễn kịch. Cậu tự khoét những cây sáo mò o, để sớm chiều mê mẩn thổi vào không gian mênh mông nắng và gió của miền biển Phú Yên những bài hát tân nhạc lãng mạn nổi tiếng thời đó. Nỗi đam mê ca nhạc đến dị thường khiến cho người mẹ cũng phải thắc mắc, không biết thứ “bùa mê quỷ ám” gì đã làm con trai bà cứ đàn hát suốt ngày đêm “như điên dại vậy”[2]. Từ nǎm 16 tuổi ra Quảng Ngãi học trường Trung học bình dân miền Nam Trung bộ, Nguyễn Tuân mới được tiếp thu một cách bài bản hơn những kiến thức âm nhạc phương Tây, học hòa âm, đánh violon và harmonium. Chính nơi đây đã nảy sinh ra biệt danh vui đùa “Nhật lùn, Nhật lai” dành cho anh chàng trông như “lai” người Nhật. Rồi chỉ ít lâu sau, thay cho cái tên khai sinh tình cờ trùng với nhà vǎn Nguyễn Tuân, biệt hiệu “Nhật Lai” đã trở thành tên gọi chính thức gắn liền với một sự nghiệp âm nhạc. Sáng tác đầu tay của nhạc sĩ Nhật Lai là bài hát viết cho quê hương Chiều trên cầu Bồng Sơn (1948). Cảm xúc trước cảnh đập Đồng Cam bị tàn phá và nạn đói ở quê nhà đã dẫn đến Cǎm thù thằng Tây cướp mùa lúa đen, một bài hát ngấm sâu vào lòng người Phú Yên những nǎm kháng chiến chống Pháp. Lớn lên trong một đại gia đình nhiều người tham gia cách mạng và thoát ly đi kháng chiến, bản thân lại mê kiếm hiệp, sẵn “máu” anh hùng cá nhân, luôn tự thân tồn tại, chàng nhạc sĩ tuổi mười tám đã tình nguyện vào vùng địch hậu Đắc Lắc làm công tác tuyên truyền chống Pháp. Thế là sau Phú Yên - nơi sinh thành, nơi lưu truyền dòng máu mê ca nhạc cho Nhật Lai, Tây Nguyên đã trở thành quê hương thứ hai - miền đất khởi nguồn cho một dòng cảm hứng sáng tạo mãnh liệt trong nhạc sĩ. Dung dị, ít nói, bộc trực, chân thành, quyết liệt..., những tính cách “rất Tây Nguyên” trong con người Nhật Lai đã đưa ông hòa nhập hết sức tự nhiên vào đời sống sinh hoạt và tinh thần của các dân tộc ít người. Đóng khố, hút tẩu, mang gùi, đi chân đất, sǎn bắn như một thiện xạ nhà nghề, thông thạo nhiều tiếng dân tộc - Ê đê, Gia rai, Bana, Hơ rê..., Nhật Lai hoàn toàn không khác dân “thổ địa” chính cống. Chẳng những có vẻ ngoài giống hệt người dân tộc, Nhật Lai còn mang trong mình cái hồn, cái tâm của một nghệ nhân dân tộc, ông đã nắm trong tay kho báu âm nhạc dân gian của các dân tộc vùng cao nguyên vào thời bấy giờ chưa được mấy ai quan tâm. Thuộc hàng nghìn bài dân ca, viết hàng trǎm ca khúc bằng tiếng dân tộc, “nghệ nhân hát rong” Nhật Lai vừa đàn hát biểu diễn, vừa dạy hát tuyên truyền hết buôn này đến buôn nọ. Có lần, nhạc sĩ đưa một tốp độ chục người Ê đê về quê nhà biểu diễn, khiến cho bà mẹ hoảng hồn khi nhận thấy con trai mình bôi mặt đen thui, cũng đóng khố, đeo tên, nồng nhiệt hát múa trong đám người dân tộc. Những tháng nǎm làm “dân” cao nguyên (1949-1954) đã để lại trong sáng tác Nhật Lai nhiều bài ca đặc chất núi rừng: Tǎm thơi, Chim Kơtia, Xuống chòi mau lên em!, Thương anh cán bộ, Đợi chờ, Tiếng cồng đêm ngừng chiến... Chưa hết, chất Tây Nguyên còn tiếp tục âm vang trong nhiều tác phẩm thanh nhạc và khí nhạc ở các giai đoạn sau này của Nhật Lai. Tính cách Tây Nguyên “ǎn” vào máu, vào âm nhạc của ông, đến mức hàng chục nǎm sau vẫn có người lầm tưởng ông có gốc gác Tây Nguyên, hoặc bài hát của ông là dân ca Tây Nguyên. Quả thực nhiều nhạc sĩ đã sử dụng nét nhạc Tây Nguyên của Nhật Lai như khai thác chất liệu dân gian vậy. Sống trên đất Bắc, Nhật Lai vẫn là một “nhạc sĩ của Tây Nguyên” với hàng loạt ca khúc: Suối đàn T'rưng, Chim lạc đàn, Chim Pông Kơle, Gửi Việt Bắc, Về buôn xưa, Xê bǎng hiêng hành khúc ca, Mùa xuân trên quê hương, Giữ lấy màu xanh, Tiếng hát Mơ nông Tibri, Câu chuyện bên dòng suối, Mặt trời Ê đê, Tôi gặp mẹ tôi... Vốn là người chẳng sợ khó sợ khổ, Nhật Lai luôn đưa các “mũi nhọn” của đoàn vǎn công đến kịp thời phục vụ những nơi nước sôi lửa bỏng. Ông có mặt trong các chiến dịch chống hạn chống úng ở nông thôn, chống phỉ ở Hà Giang (1960) và chiến trường khu IV giữa lúc máy bay Mỹ bắn phá rất ác liệt (1965). Cảm xúc từ những chuyến đi thực tế được ghi lại trong nhiều bài ca: Đan lưới, Bài ca sông Nhật Lệ, Bài ca anh Hồ Giáo, Hà Tây quê lụa... Là người đi đầu trong sưu tầm và biên soạn dân ca Tây Nguyên, kế thừa và phát triển vốn quý đó trong sáng tác, Nhật Lai tiếp tục đưa Tây Nguyên đến với những thể loại thanh nhạc lớn hơn ca khúc, như một loạt ca kịch và ca cảnh viết trong những nǎm 60-70: Ama Trang Lơng, Thử lửa, Hơ bia, Hơ On, Nữ thần mặt trời... Đó là những bước tiến dần đến Bên bờ Krông pa (1968) - đỉnh cao của ông trong lĩnh vực opéra. Những dòng ghi chép từ nǎm 1957 cho biết nhạc sĩ đã “nhắm trước” cho mình cái đích phải đến và không ngừng trǎn trở để đạt được ước vọng đó: “Tự luyện, tự học, tự nghiên cứu tìm tòi vốn cũ dân gian và kinh nghiệm quốc tế để tiến lên sáng tác nhạc kịch (opéra) là đỉnh cao nhất trong cuộc đời nghệ thuật của ta!”[3]. Và ông đã trở thành người thứ hai, tiếp sau nhạc sĩ Đỗ Nhuận, đặt nền móng cho loại hình nghệ thuật tổng hợp này tại Việt Nam. Tự học trong “trường đời”, chưa từng qua khóa đào tạo chính quy nào ngoài những lớp sáng tác ngắn hạn của chuyên gia Liên Xô (cũ) và Triều Tiên, điều này không hề ngǎn cản Nhật Lai thể hiện một cách độc đáo bản lĩnh nghệ thuật của mình trong lĩnh vực nhạc không lời. Bản lĩnh ấy đã được nuôi dưỡng bởi tình yêu và niềm tin mãnh liệt vào âm nhạc dân gian, vào những con người vô danh - được ông tôn làm thầy - đang nắm giữ và hồn nhiên lưu truyền vốn quý cho đời sau: “Ta đã học qua một trường đại học nghệ thuật lớn nhất trong thực tế, cho nên ta nói không hề biết sợ hãi”[4]. Bản lĩnh ấy đã đưa Nhật Lai vào hàng các nhà soạn nhạc tên tuổi của khí nhạc Việt Nam, qua các tác phẩm giao hưởng thính phòng như hòa tấu Vũ khúc Tây Nguyên, rhapsodie Tiếng cồng mùa xuân, ballade Tiếng trống đồng (1974), Giao hưởng số 1 Đất lửa (1982)... Nói đến gia tài nhạc không lời của Nhật Lai còn phải kể đến nhạc phim (Rừng Xà nu, Tiếng gọi phía trước) và đặc biệt là nhạc múa. Ông viết nhạc nền cho một số lượng khổng lồ những tiết mục múa: Rông chiêng, Đi sǎn, Múa chǎm, Múa trống Tây Nguyên, Múa chiếc coong, Cô gái Ê đê, Đâm trâu, Giã gạo..., và các kịch múa: Hoa sen, Thạch Sanh, Nỏ thần... Hiếm thấy nhạc sĩ nào say mê “sống chết” với ngành múa như Nhật Lai. Ông tập hợp và đúc kết kinh nghiệm múa dân gian, từ nhạc đến động tác, và ông là người có công lớn trong việc truyền đạt lại nhiều điệu dân vũ của các dân tộc khác nhau trên dải đất Tây Nguyên. Vào cái thời còn chưa có các nhà biên đạo múa chuyên nghiệp, Nhật Lai vừa viết nhạc vừa kiêm dàn dựng múa, nhiều tiết mục của ông được hoan nghênh không chỉ trong nước mà cả ở nước ngoài. Trong những nǎm phụ trách các đoàn vǎn công - Đoàn Vǎn công Tây Nguyên (từ nǎm 1954), rồi Đoàn ca múa miền Nam (từ nǎm 1961), Nhật Lai không chỉ “gánh” lấy vai trò biên đạo, mà còn dành nhiều tâm lực vào việc đào tạo diễn viên ca múa và biên đạo vũ kịch. Ông tỏ ra nhạy cảm tinh tường trong phát hiện những tài nǎng trẻ, không ít “đệ tử” của Nhật Lai sau này đã trở thành nghệ sĩ múa nổi tiếng, và cũng không ít nhạc sĩ biểu diễn và sáng tác người Tây Nguyên đã trưởng thành nhờ sự dẫn dắt của “già làng” Nhật Lai. Nhật Lai đã có những đóng góp đáng kể trong lĩnh vực biểu diễn nhờ tài hát múa, diễn xuất và dàn dựng. Những khả nǎng trời phú ấy từng làm kinh ngạc nhiều nhạc sĩ nước ngoài có mặt trong một trại sáng tác do Hội Nhạc sĩ Liên Xô (cũ) tổ chức. Lần đó, Nhật Lai cùng với nhạc sĩ Hoàng Vân giới thiệu về âm nhạc Tây Nguyên và để minh họa cho “diễn giả” Hoàng Vân, “nghệ nhân” Nhật Lai đã độc diễn xuất thần trong nhiều vai: người đi sǎn, phát rẫy, trỉa bắp... Ông nhập vai và hát dân ca hay đến mức cử tọa cứ tưởng ông đích thực là nghệ sĩ dân gian. “Nhạc sĩ phải yêu dân ca như yêu vợ của anh ta”[5] - sự so sánh trong quan niệm sáng tác của Nhật Lai phần nào cho thấy tình yêu dành cho dân ca cũng như cho vợ có ý nghĩa thế nào trong cuộc đời nhạc sĩ. Trời cho Nhật Lai gắn bó với dân tộc ít người trong sáng tạo nghệ thuật, trời cũng cho Nhật Lai mang nặng duyên phận với phụ nữ dân tộc trong cuộc đời riêng tư. Hình ảnh người vợ đầu - Châu Ngọc Lệ, diễn viên múa dân tộc Khơ me - không may mất sớm, vẫn mãi mãi lưu lại trong chương Nước mắt của viên Ngọc (giao hưởng Đất lửa). Đến với người vợ sau - Hồ Thị Kha Y, ca sĩ người Vân Kiều, Nhật Lai vốn từ lâu được coi như người anh em ruột thịt của các tộc người Tây Nguyên, giờ đã chính thức có một “quan hệ họ hàng” với Tây Nguyên trong vai trò chàng rể. Cuối nǎm 1986, Nhật Lai được mời đến Riga (Latvi, Liên Xô cũ) tham dự một liên hoan âm nhạc giao hưởng. Không ngờ đó là chuyến đi cuối cùng trong đời “người hát rong” Nhật Lai. Có lẽ cái lạnh khắc nghiệt, lại thêm sự xúc động trước hiệu quả trình diễn giao hưởng Đất lửa ở nơi xa xôi ấy vô tình làm tổn hại nốt chút sức lực còn lưu lại trong cơ thể đã vắt kiệt mình cho lao động nghệ thuật của ông. Vừa trở về ông đã vội vã ra đi, ra đi vĩnh viễn vào một ngày đầu nǎm mới, 5-1-1987. Tây Nguyên mãi nhớ thương một “già làng” âm nhạc, Hà Tây quê lụa mãi tự hào về món quà âm nhạc ông gửi lại cho mảnh đất “cửa ngõ Thủ đô” này, người đời không quên những tác phẩm độc đáo làm nên một tên tuổi Nhật Lai. Với những nhạc phẩm để đời ấy, ông đã được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về vǎn học nghệ thuật nǎm 2002.

Nhạc sĩ Nhật Lai tên thật là Nguyễn Tuân। Ông sinh ngày 12/5/1931, tại Tuy An, Phú Yên।Nhạc sĩ Nhật Lai đến với âm nhạc từ rất sớm, ông đánh trống, chiêng trong dàn nhạc cổ của ông ngoại tại Thừa Thiên Huế। Năm 1947, ông ra Quảng Ngãi học trường Trung học bình dân Nam Trung bộ। Ở đây, ông có điều kiện tiếp xúc với những kiến thức âm nhạc phương Tây và học thêm đàn Violon, Harmonium. Năm 1948, ông viết ca khúc đầu tiên Chiều trên cầu Bồng Sơn và tiếp đó là bài Căm thù thằng Tây cướp mùa lúa đen. Cũng trong năm 1948, Nhật Lai xung phong vào vùng địch hậu Daklak, hoạt động trong lĩnh vực văn nghệ. Sống và chiến đấu cùng với những bản làng Tây Nguyên, ông thông thạo các thứ tiếng dân tộc Ê-đê, Gia-rai, Ba-na, đắm mình trong âm nhạc dân gian các dân tộc Tây Nguyên. Ông thuộc hàng trăm làn điệu dân ca của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên và bắt đầu đi sâu sưu tầm, nghiên cứu về âm nhạc Tây Nguyên. Nhiều ca khúc được sáng tác trong giai đoạn này thấm đẫm âm hưởng Tây Nguyên như: Chim Kơtia, Xuống chòi mau đi em!, Đợi chờ, Tiếng cồng đêm ngừng chiến... Năm 1954, ông cùng Đoàn văn công các dân tộc miền Nam tập kết ra Bắc. Năm 1955, Ca kịch Ra đi của ông do Đoàn văn công các dân tộc miền Nam biểu diễn đã được giải thưởng đặc biệt trong Đại hội liên hoan văn công toàn quốc. Thời gian này ông được dự những khoá học ngắn hạn do các chuyên gia Triều Tiên và Liên Xô (cũ) giảng dạy. Mặc dầu sống trên đất Bắc nhưng những tác phẩm của ông vẫn vang vọng âm hưởng của núi rừng Tây Nguyên với những ca khúc: Chim poong kle, Suối đàn t`rưng, Tiếng hát M`nông tipi... Trong đó, Chim poong kle đã trở thành bài hát thời thượng của thanh niên miền Bắc trong những năm đầu của thập niên 60. Những khóa học sáng tác ngắn hạn đó đã giúp ông có thêm những kiến thức và kỹ năng cần thiết trong sáng tạo nghệ thuật. Ông bắt đầu viết những tác phẩm thanh nhạc lớn hơn như: Ama Trang lơng, Thử lửa, Hơ Bia, Hơ On, Nữ thần mặt trời... Năm 1968 ông sáng tác vở opéra Bên bờ Krông. Opera này không những là đỉnh cao nghệ thuật của bản thân ông mà còn có ý nghĩa cột mốc trong nền âm nhạc chuyên nghiệp Việt Nam. Đồng thời, ông được mời dự Liên hoan âm nhạc giao hưởng tại Latvia (Liên Xô cũ), biểu diễn giới thiệu Giao hưởng số 1 Đất lửa của ông. Những tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Nhật Lai dù là thanh nhạc hay khí nhạc đều có nét độc đáo, giai điệu đẹp, đa dạng, tiết tấu phong phú, tính dân tộc sâu đậm bắt nguồn từ dân ca mà chủ yếu là dân ca Tây Nguyên. Ông được xem như là người kế tiếp Đỗ Nhuận đặt nền móng cho nghệ thuật Opera Việt Nam, là người có nhiều công lao trong việc sưu tầm, biên soạn dân ca Tây Nguyên và là người có công lớn trong việc phổ biến, lưu giữ những điệu múa dân gian của vùng đất ba-zan. Với những cống hiến cho nghệ thuật, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2002.

*Các tác phẩm tiêu biểu:
- Chim poong kle- Suối đàn t rưng-Tiếng hát Mnông टीपी- Ama Trang lơng- Thử lửa- Hơ Bia- Hơ On- Nữ thần mặt trời... - Vũ khúc Tây nguyên viết cho đàn T`rưng- Rhapsody Tiếng cồng mùa xuân- Ballad Tiếng trống đồng- Giao hưởng số 1 Đất lửa- Nhiều tác phẩm viết cho Ballet như: Hoa sen, Thạch Sanh, Nỏ thần- Âm nhạc cho múa: Đi săn, múa trống Tây nguyên, Đâm trâu, Giã gạo, Cô gái Ê-đê।- Âm nhạc cho phim : Rừng xà nu, Tiếng gọi phía trước


Sống là mơ mộng

BÙI GIÁNG

Đinh Năng Thiện



Hình như Bùi Giáng bảo rằng
Sống đời yên ổn không bằng lang thang
Tiểu thơ Phùng Khánh đạo vàng
Lang thang từ buổi nhỡ nhàng lang thang
Giảng đường Vạn Hạnh thênh thang
Có chàng cuồng sĩ tàng tàng xổ thơ
Kim Cương kỳ nữ thẫn thờ
Thương tài xót phận ngẩn ngơ kiếp người
Xem ra cũng giống đười ươi
Dang tay ngửa mặt tiếng cười cất cao
Mỗi ngày là một khát khao
Mỗi ngày một mối tình khao khát đời
Hoá thân cát bụi tuyệt vời
Ra đi để lại bao lời thiết tha
Hình như trong cõi người ta
Sống là mơ mộng, chết là tự do...

Đ.N.T

(lucbat.com)

Thứ Bảy, 6 tháng 12, 2008

Một truyện ăn khách

Gió lẻ
Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư

Trận mưa ban trưa đã vẽ lên kính trước chiếc xe tải Landu một mùa gió lẻ. Lá me rơi tầm tã trên mặt kính. Cái gạt nước không làm sao khỏa sạch được những chiếc lá nhỏ mong manh. Người lái xe chồm người đu đưa bên cửa, gạt lá rơi theo tiếng chửi thề lóc cóc. Cái khăn úa màu dầu nhớt trên tay ông ta mở ra trước mắt em bức tranh chợ Cỏ giãy giụa trong buổi xế tàn ngày.
Hai dãy nhà bên đường chạy chưa ngút tầm mắt thì nín bặt vì quãng đồng bỏ hoang. Chợ chiều gì cũng héo, nắng sau mưa héo chiếu xiên trên rau củ héo, và những mảnh thịt cũng héo tái tê dưới tiếng vo ve no say của lũ ruồi. Những người đàn bà đang ngồi bên sạp hàng của mình ngáp ơi hời qua môi khô. Trong tiếng thở dài của chợ Cỏ, em không nghe được hơi nước bay lên.
Một người thanh niên khác trên chiếc xe tải đã chuyển những vại dưa cải cuối cùng xuống chợ. Anh ta mở cửa xe, ùa vào em cái mùi chua khẳm, anh lay tay em, tới chợ Cỏ rồi, giùm ơn thức dậy, xuống xe.
Em lặng lẽ thò tay vào túi lấy ra thêm một ít tiền. Tim anh ta đập mạnh. Lần này không phải vì tiền, mà vì ngạc nhiên. Thực ra cô muốn đi đâu, anh ta hỏi. Em nhìn anh một chút rồi nhắm mắt, em cũng không biết mình đi đâu hay sau đây anh ta sẽ đi đâu. Em thích ngồi đây, trên cái nệm ghế dường như đã rách, đùi em chạm vào khung thép, một khối mùi hổn độn chênh chao chung quanh, nhưng em thấy dễ chịu vì không buồn nôn.
Hôm qua từ Xuyên Mỹ tới thành phố, trên chiếc xe khách nhỏ và chật, em lại bị nôn, khi tên lơ xe yêu cầu hành khách xuống một cái chợ xã hiu hắt, "bà con an tâm, tụi này chạy đi vá vỏ chút rồi quay lại đón". Những cọng mì từ miệng em tuôn ra, lộn trái dạ dày. Trong đám hành khách nhếch nhác bị bán rẻ dọc đường, có bà cụ kêu mèn đét ơi rồi xoa dầu vào thái dương em, bùi ngùi, "con nhỏ say xe thiệt tội", mùi cốt trầu từ hai túi áo bà ấm sực. Em thấy cổ họng mình không cong lên nữa.
*
Gã không còn nhớ màu của nắng, hay phía của mặt trời rơi, vào buổi chiều chiếc xe tải rời một cái quán ăn bên ngã ba đường đi chợ Cỏ. Gã cố nghĩ ra xem hôm đó có điềm báo nào không, nhện sa trước mặt, hay con chim nhỏ bay lạc vào cabin, hay bọn gã đã làm vỡ một cái tách trong quán nhỏ… trước khoảnh khắc cô gái xuất hiện trước đầu xe, áo cũ nhàu, tóc xõa trên cái cổ trắng nhợt nhạt.
Cô đứng chắn ở đó, gã nóng nảy nhấn còi. Cô vẫy một tờ giấy bạc xanh. Tiền lung liêng cất tiếng, nó nói rằng con nhỏ này có tôi, và nó muốn đi cùng, trên chiếc xe tải cũ nát, chở những vại dưa cải từ thành phố đi chợ Cỏ.
Hôm ấy gió lẻ bắt đầu ướm chân vào mùa. Khi mở cửa cho khách vào xe, gió vẽ một vệt lạnh lên gương mặt đen đúa của Dự. Cậu ta làu bàu, "lạnh thấy mẹ…". Cậu ta lân la hỏi, em quen ai ở chợ Cỏ, nhưng cô gái đã ngủ rồi. Có thể cô không ngủ, nhưng cô nhắm mắt để khỏi trả lời, cái ba lô nhỏ màu lông chuột ghì chặt trong lòng. Gương mặt, bàn tay, và tất cả chi tiết trên người cô toát ra một vẻ câm lặng.
*
Có vài câu hỏi bình thường mà người ta hay dùng để minh họa cho trò ảo thuật, thí dụ như nhà em ở đâu, sao lại đi lang thang bụi đời như vầy ? Bộ không còn người thân nào ? Em bệnh gì mà người em xanh rờn vậy ? Em muốn đi đâu ? Ai chờ em ở đó ? Em tên gì ?
Những dấu hỏi bầu bĩnh trùm lên mũi dao, và người ta chỉ cảm nhận sự sắc nhọn của dao khi nó bắt đầu chạm vào da thịt.
*
Cái tên sinh ra từ vụ tai nạn nhỏ, gã đã lơ đãng dập cửa trong lúc hỏi cô tên gì, tay cô bị kẹt trong đó, và cô thét lên "Á !". Đầu ngón tay trỏ của cô bẹp dúm và chỉ năm phút sau, nó sưng phù. Cô gái không khóc, dù đau lả. Gã áy náy định xoa dầu, nhưng cô lắc đầu, cô ngậm ngón tay đau cho đến khi nó cũng ướt đầm đìa, tê dại.
Cô vẫn câm lặng. Mà cô thì đi với họ đã hai ngày, và cuộc đi này có lẽ còn dài. Cô cần có một cái tên, để lúc gọi ăn cơm, lên xe hay xuống xe. Nhưng sau vài ngày, gã thấy tên cô có gì không ổn, nghe như tiếng kêu thét đau đớn, như một nỗi bàng hoàng, và nó gợi nhớ cái lỗi bất cẩn của gã, trong khi vết thương đã gần như lành lặn. Chiều đó ăn cơm xong, gã bất ngờ gọi:
- Mỹ Ái, lên xe !
Quà tặng đầu tiên làm cô mỉm cười.
*
Em có nhiều tên, ở rẫy bắp trong Mai Lâm , người ta gọi em là Lạc, trên những nẻo đường em đã đi qua, trẻ con gọi Câm ơi còn người lớn hỏi, "Em Cưng, đi đâu anh chở ?". Tối hôm kia, trong một nhà chờ xe buýt bên đường, tên em là Phượng. Người thảng thốt Phượng ơi là một thanh niên mềm nhừ vì say. Cả tiếng kêu cũng xiêu vẹo, rã rời. Trong cái chuỗi lắp bắp trên môi là nỗi nhớ. Xe đạp. Chuyến đi. Đèo Mụ Mị. Gác chân nhau ngủ trong sương. Em nghĩ anh ta đang nói nhảm, anh ta không nói về mình, nên thản nhiên lấy mắt buộc những sợi mưa mỏng và dai ngoài kia. Rượu đã thấm tới lưng, nên lưng cũng không giữ gã trai đang ngày càng cong khẳm.
- Bữa ở trên đèo, tụi nó có tới sáu thằng. Mình đâu có bỏ chạy, mình chỉ tìm người tới giúp.
Gần như anh ta không giữ được cái đầu mình nữa, nó sắp rụng khỏi cổ. Cả người anh ta ngấm nước mưa, rượu và nỗi buồn, tất cả đã ướt đẫm tới xương. Chúng pha loãng máu, và trái tim mệt mỏi kia phải đẩy đưa từng dòng trong vắt. Em quẩy túi lên vai, em sợ cái cách chảy trôi tuột, trơn lẫy của những dòng máu loãng.
Em bỏ đi, chân sau đạp chân trước xước cả giày. Cảm thấy từ gót chân này một cơn đau nhói chầm chậm dâng lên. Như em chính là người tên Phượng.
Mỹ Ái dường như chỉ là cái tên bất chợt. Em thích vì với em, nó không có quá khứ.
*
Cô gái ở lại cabin, bắt đầu từ hôm nôn trong một quán ăn, khi Dự bả lả nắm một cánh tay chi chít sẹo ghẻ và đắm đuối bảo một cô phục vụ là đêm qua anh đã chiêm bao thấy em, và chập chờn cả đêm, ướt đẫm cả đêm, "Anh thấy nhớ em khủng khiếp...". Cô rơi đũa, cong người bỏ chạy ra sau quán rồi lên xe luôn, không xuống nữa. Cô dường như chọn cái khỏang không chưa đầy hai mét vuông đó làm nhà.
Dự hơi sửng sốt, "đại ca, con nhỏ đó không bình thường…". Gã tọng một đũa rau vào miệng, ngốn cả lời của chính mình, "nó không chịu được chú mầy nói dóc".
- Vậy mắc mớ gì nó ói ?
- Đi hỏi nó.
- Đại ca giởn, nó câm mà.
- Thì thôi.
Bằng cách dựng chuyện tầm phào, đồn đoán và bịa đặt, mỗi ngày họ bỏ ra một vài ý nghĩ, nói một vài câu về cô. Điều đó làm gã hơi ngạc nhiên, cuối cùng thì gã và Dự cũng có mối quan tâm chung.
Gã mua chiếc Landu này năm năm trước, với giá bảy mươi ba triệu, số tiền của hai mươi mốt năm làm bốc vác trong một nhà máy nước đá, lơ xe, phụ xế, và ôm vôlăng ăn gửi nằm nhờ trên những con đường. Chủ cũ tặng kèm một phụ xế tóc dài phủ mắt, đen quắt vì nắng và vì ngại tắm, già trước tuổi, tên Dự. Gã không cần Dự, nhưng chiếc xe tải thì cần, cậu ta thuộc cái tiếng xùng xèng kia phát ra từ đâu và mùi khét đó sẽ buộc họ dừng lại bao lâu, để sửa. Nếu nửa đường chiếc xe bỗng nghẹn ngào và chết máy, Dự ngó quanh hoang mang, trời ơi chắc muỗi xé xác tui quá, gã phải hiểu là đêm nay sẽ ngủ ở đây.
Năm năm đi với nhau, gã vẫn coi Dự là một hạt cơm nguội rời. Gã không cần gia đình nên không bao giờ xây dựng một gia đình. Đôi lúc tắm chung cũng không thèm nhìn vào cơ thể nhau. Gã có cuộc sống riêng, giấc mơ riêng và người đàn bà của mình vào những tối.
Nhưng cô gái mang lên xe gã quá nhiều bí ẩn và bất thường. Cứ nhìn cô gái xanh mét sau trận nôn mà không nén lòng được cứ phải buộc miệng, "nhìn con nhỏ ma quái quá…".
*
Em luôn có cảm giác mình nôn ra máu. Cứ sau mỗi trận nôn, người em rã ra, kiệt sức, không nghe tiếng tiếng máu chảy, tim thì cứ co bóp khan. Em thấy mình rất gần bờ chết, chỉ cách một gót chân thôi, em sẽ rơi vào dòng nước đen ngòm, rồi thì chìm xuống, mãi mãi. Hôm gặp lại cha, từ trường quay của chương trình "Giã từ lưu lạc", cha đưa em ghé qua nhà bác sỹ Lanh. Ông lật đật khám soi với đầy đủ những xét nghiệm quan trọng. Ông hỏi em nôn gì khi nảy, cha cười héo hắt, nhắc lại một bãi nôn khoai lang chua ngoét trước mặt bao nhiêu khách mời. Ông bác sỹ cười, chắc là ăn nhiều khoai chướng bụng không tiêu hóa được. Mà, cũng có thể do quá căng thẳng, xúc động, thất lạc nhau bảy tám năm chớ đâu có ít. Rồi ông xoa đầu em, chú mà xúc động, là chú ngứa mũi, nhảy mũi liên tục.
Hôm đó dường như ông cũng xúc động, cha em nói cha vừa ký quyết định nào đó cho bệnh viện nào đó, gương mặt bác sỹ rạng ngời. Ông âu yếm dúi vào tay em đơn thuốc, "Chịu khó truyền đạm, cháu nó coi bộ suy nhược lắm. Anh nói nó đã từng ở đâu, trong Mai Lâm hả ? Trời, hồi đi thanh niên xung phong tôi có ở đó, rừng thiêng nước độc lắm. Tội nghiệp cháu nó…"
Cái đơn thuốc làm cha tươi tỉnh và nhẹ nhỏm. Cha không biết đó chỉ là tờ giấy vô vọng, với những nét chữ đổ tháo vô vọng.
*
Gió lẻ làm gã phải quan tâm nhiều tới chỗ ngủ. Bây giờ không thể bạ đâu nằm đó, trên sạp hàng hay sàn xe. Không thể ngủ trong cơn đùa nghịch dẳng dai của những cơn gió bị xé nhỏ bởi một bàn tay vô hình. Và từ khi lìa nhau, gió dằn vặt con người bởi nỗi ly tan của chính nó. Những cơn buốt lạnh chợt tới, chợt đi, thảng thốt. Đắp một tấm mền cũng là một cuộc tranh đấu nhỏ, bởi không biết bao giờ gió sẽ tới, trong thời gian đó, người ướt đẫm mồ hôi. Và khi người ta mòn mỏi thiếp đi thì gió lại dựng họ dậy theo cái kiểu lướt thật chậm từ chân lên đầu, như có một linh hồn, một bóng ma vừa đi qua âu yếm.
Để trốn gió, gã nhận chở bất cứ loại hàng nào, với cái giá rẻ nhất đi tới những người đàn bà của mình ở những điểm đến quen thuộc. Bằng cách đó, từng mùa gió lẻ đã đi qua đời gã êm đềm. "Khỏi tốn tiền trọ…", Dự cười hinh hích, cậu ta nghĩ vậy. Dự xa xôi với gã bởi những điều như thế. Dự trẻ, và ngơ ngác giữa cuộc đời ngơ ngác.
Nên dù nằm trong căn phòng ấm sực, cậu ta vẫn trằn trọc với cái kiểu gió đêm nay, "con nhỏ câm đó sao không chịu vô nhà…". Sáng sau gặp lại, không biết cô gái có bị gió làm xanh đi chút nữa. Hai chân có thể sẽ không duỗi thẳng ra được, vì gió vào cabin và cô gái bị đông còng queo.
*
Rẫy bắp ở Mai Lâm đón gió lẻ bằng những luống cây ngiêng ngửa. Vài ngọn gió cô đơn đã nghênh ngang đi qua rẫy tạo ra một cảnh tượng buồn cười, chỗ thẳng chỗ xiên, rối bời. Buổi sáng thức dậy, gió làm những cây bắp đã trổ cờ ngã rạp tạo một tầm nhìn thấu vô nhà ông Tám Nhơn Đạo. Em thấy ông đang gội tóc cho bà vợ tật nguyền của mình. Bà nằm trên một cái ghế dài, một tay ông đỡ cái đầu nặng trĩu của bà, tay kia làm dội nước, rót dầu gội, rồi thì bàn tay to bè đó cũng chìm mất trong đống bọt trắng xóa.
Buổi gió làm cho việc gội đầu diễn ra nhanh hơn. Ông Tám ẳm vợ vô nhà, họ mất hút sau cái cửa tối. Em chậm rãi xoay người về phía cây bằng lăng. Những chòm sao tím thắp trên cây đã bị gió lùa rụng đầy đất. Từ lưu lạc, bầy sao bắt đầu nhuốm màu lam lũ, tả tơi.
Con Cò từ trong nhà ông Tám xúng xính chạy ra, mớ lông trên mép còn dính chút mỡ cháy. Nó vừa đi vừa sủa sững sốt, dù đã sủa suốt đêm qua, dưới ánh sáng ban mai, cảnh vật trên rẫy trở nên xa lạ. Nóc căn chòi em ở xù lên phơ phất, như tóc của một người vừa ngủ dậy.
Trong mớ âm thanh quen thuộc của lũ kiến chạm chân trên đường rời tổ, của muôn vạn cái lá dập xao xác, những giọt sương sẽ sàng rụng xuống, tu hú kêu vang trong bờ sậy, có lẫn tiếng cây đang ứa nhựa hàn gắn vết thương, nơi nụ hoa lìa.
*
Dự hay dậy sớm, lúc ngồi dậy với cái lưng đau ê ẩm, cậu tung cửa chạy ngay tới chiếc Landu xem cô gái có còn… sống. Dù cô đang ngủ cậu vẫn gọi cô dậy, xác nhận cô còn có thể mở mắt, Dự nhoẻn cười, nói một câu vô nghĩa, "hên dã man…".
Nhìn cô sống, Dự cảm giác mình cũng sống, với những tia hy vọng ngập ngụa trong lòng. Sự sống tồn tại trong mùa gió lẻ khắc nghiệt, ở nơi nào đó, chắc bà nội cậu cũng đang thức dậy, hé mắt ứ hự chào ngày mới. Trong cơn cao hứng, đôi lúc Dự đã đu lên vai gã, thân thiết như đứa em nghịch với anh trai. Gã cau có, gã không thích những va chạm này.
Vì Dự căm ghét những con đường. Những lúc dừng xe lại, chạy lại giở nón của một người hành khất để tìm khuôn mặt già nua quen thuộc, Dự nguyền rủa con đường đã mang bà nội cậu đi, bảy năm trước. Gã ngồi im lặng trên xe, nhìn cái lưng trĩu thất vọng của Dự, và nghĩ, lựa chọn yêu thương con người đồng nghĩa với việc mất mát những niềm vui. Đồng nghĩa với cái chết, sự lìa bỏ, sự phản trắc, tan vỡ…
Gã thì yêu thương say đắm những con đường. Chúng luôn tồn tại, sinh sôi tươi mới. Một con đường không có cái chết. Một con đường luôn biết chờ đợi.
*
Em thích nhìn gương mặt người chủ xe sau buổi cà phê sáng. Môi ông ngậm một điếu thuốc lơ đãng, lên ngồi sau tay lái và im lặng một thoáng, trước khi vào cuộc hành trình. Khói thuốc cùng những giọt cafe còn đọng trên bộ râu tua tủa làm vẻ mặt của ông lung linh. Sau đó thì khuôn mặt chỉ còn một sự trầm mặc quánh lại, và trên người ông chỉ còn nhịp điệu của nỗi buồn.
Một con người buồn bã.
Mỗi lần qua một khúc quanh, hay khi phải phóng tầm mắt xa về phía trước, em nhận ra nhịp tim của ông giống hệt em, máu chảy về đó rất ơ hờ, lãnh đạm, tựa như không máu cũng chẳng sao, tim vẫn lay đúng nhịp. Không có gì sau ngã rẽ này hay phía trước kia, chờ đợi.
Người còn lại ngồi cạnh em thì ngược lại, hơi thở của anh ta luôn rộn ràng. Anh háo hức chăm chút từng khoảnh khắc, từng biến đổi cảnh sắc trên từng đoạn đường mà chiếc Landu cũ kỹ đi qua.
*
Cô gái không còn tiền, buổi chiều mua cho cô hộp cơm, gã nghĩ tới chuyện để cô xuống chợ Mỹ Đức, nơi chút nữa xe dừng lại giao những bó lác trói cua. Tới chợ thì trời tối, chủ hàng bảo chờ sớm mai sẽ thanh toán tiền công. Gã lặng lẽ quẳng đôi giày cô gái xuống xe, tiếp theo là túi xách và sau cùng là cô gái, bờ vai u nhã lọt thỏm trong bàn tay gân guốc, chai sạn. Dự nhìn thấy hơi có chút bất nhẫn, ‘tội nghiệp con nhỏ…".
Cô gái như biết trước ngày này, thản nhiên nằm bên thềm chợ, co lại trong gió lẻ. Vẫn cái vẻ nín nhịn câm lặng nhưng vì chợ rộng quá nên nom cô nhỏ nhoi, tha thủi. Gã cố không nhìn về đó dù Dự cứ liên tục chắc lưỡi hít hà. Chuyển hết hàng thì gần nửa đêm, Dự nói, "làm một giấc tại chỗ, lấy được tiền là dọt luôn, khỏi mất công kiếm chỗ ngủ, đại ca…". Cậu ta muốn nấn ná thêm, biết đâu ông chủ sẽ lại vớt cô gái theo cùng.
Khoanh tròn trên một sạp hàng tạp hóa, Dự thiếp đi trong hy vọng mong manh. Gã ngồi quanh đó, hút thuốc đến mòn mỏi. Mới thiu thiu, vẫn nghe gió lẻ rờn trên mặt thì cô gái hét lên, nghe như một cái tách rơi vỡ xuống nền nhà :
- Lửa !
Gã và Dự tốc chạy qua cánh cửa khói quặn đen ngòm. Dự không quên kéo cô gái theo. Đi khỏi con đường hẹp bên hông chợ, một đám cháy đã nhói lên trong kính chiếu hậu. Đêm ngưng đọng trên đường về. Gã thấy mộng mị, tiếng thét của cô gái, đám cháy… Những tàn thuốc của mình đã gây tai họa, gã giấu ý nghĩ đó vào lòng.
Sáng hôm sau, ti vi nói rằng chợ Mỹ Đức chỉ còn cái khung bê tông ám khói, hàng tỉ đồng hóa thành tro bụi, họ đang tìm nguyên nhân. Gã gần như úp mặt vào tô hủ tiếu, cắm cúi ăn. Dự hớn hở thấy mình thoát chết, cứ chống đũa thắc mắc :
- Ủa, tưởng đâu con nhỏ câm thiệt. Tự dưng phát lên nói là sao, trời ?!
Người có thể trả lời thì ngồi ngoài xe. Gã ngờ ngợ, không biết số phận đã làm nên đám cháy đó hay chính cô gái muốn vậy. Giờ bỏ cô lại, biết đâu cô sẽ kể cho ai đó nghe vụ cháy ở chợ Mỹ Đức. Cô có câm đâu.
*
Hồi sáu tuổi, có lần em lén lấy dao cạo râu của cha để tỉa lông cho con chó Lu Lu, không ngờ vì chuyện đó mà cha mẹ cãi nhau, cha chỉ vào em, hỏi mẹ, từng từ khít như máu rỉ qua kẻ răng, "cô lấy thằng nào mà đẻ ra cái thứ này ?". Mẹ em không trả lời, lẳng lặng vào phòng, khóa cửa trong. Ba giờ sau cha tìm thấy mẹ em treo mình đung đưa trên xà nhà. Lưỡi trả lại cho cuộc đời, bởi người không chấp nhận sự vô dụng của nó, nói mà chẳng người nghe.
Em đứng nhìn mẹ, đái dầm vì sợ. Bà Chín ở bên cạnh bịt mắt em, tay bà khô không khép chặt được, trước khi vào phòng thay quần áo, em vẫn thấy gương mặt bị biến dạng của mẹ. Khi em quay lại với cái áo đầm mới màu vàng chanh, bà Chín bắt đầu khóc hức lên, chua xót, "trời đất ơi, kiếp người sao mau như nấu gói mì tôm vậy…?".
Suốt hai ngày lễ tang của người đàn bà tuyệt vọng vì phát hiện mình bị ung thư dạ dày, như cha em buồn bã kể, em ngồi dựa vách chỗ đặt quan tài của mẹ, lặng thinh cắn hột dưa, cho đến khi hai môi em đỏ rực, những đầu ngón tay em cũng đỏ, như sắp bật máu ra tới nơi rồi. Cuối ngày, bỗng bà Chín níu tay cha em, hớt hải :
- Sao mấy ngày nay con nhỏ không nói năng gì ?
Cha quay lại nhìn em, thoáng nhẹ nhỏm. Sự câm lặng cần thiết cho những bí mật.
*
Câu hỏi đầu tiên mà Dự chuẩn bị sẵn, rất đơn giản, "nhà cửa ở đâu mà đi bụi, hả em cưng ?" nhưng cô gái không trả lời. Cô vẫn không có vẻ gì muốn nói. Giống như tiếng thét ở Mỹ Đức chỉ là một giấc mơ. Gã nghe trong cái im lìm của cô là sự nhẹ nhỏm của chính mình. Gã không bao giờ hỏi ai một câu tương tự, bởi người ta sau khi trả lời luôn muốn hỏi lại, "còn anh ?".
Gã chưa bao giờ trả lời, kể cả với những người đàn bà gã ôm trong lòng. Đó là câu trả lời mặn sẵn, làm rộp bỏng môi, như nước biển.
*
Từ Thổ Sầu qua thành phố, tránh kẹt xe, nên ông Buồn (là em tự gọi vậy) đã lái chiếc Landu đi tắt qua những con đường ven đô. Em sực nhớ em vừa ngang qua nhà. Cổng cao và nhiều hoa giấy đỏ. Nó đã tinh tươm trước khi em trở về. Và sau đó thì vương vãi những bãi nôn.
Nhiều người mang quà tới chúc mừng cha và em, họ nói một cuộc sum họp được truyền h2inh trực tiếp trên ti vi làm họ khóc muốn chết. Họ không ngờ cuộc đời của chủ tịch lại nhiều bi kịch vậy, vợ đầu chết, con gái thất lạc gần mười năm trời. Phải có ý chí cao lắm, nghị lực khủng khiếp lắm mới vượt qua những nỗi đau riêng mà lo cho chuyện chung. Em nghe những điều đó với một chút ngẩn ngơ, rồi nôn, muốn chạy tới phòng vệ sinh nhưng chẳng nhớ nó nằm đâu, nên thức ăn lộn ngược ra thảm. Ngày khách nhiều em nôn nhiều lần. Chị Băng nói vậy thì cứ nằm trong phòng.
Thật ra khách cũng không cần gặp em, khách chỉ muốn chị Băng nhớ là họ đã đến, và con chó xù nhồi bông ngoại nhập kia, chiếc vòng bạch kim kia, cái túi xách đắt tiền kia… là của họ tặng cho em. Chị Băng nhớ thì chị sẽ nói lại, khi cha về. Công việc của chị Băng, là làm cha em nhớ tới họ.
Chị còn chuyện quan trọng mỗi buổi sáng, là đi mua thức ăn cho bầy cá sấu trong chuồng. Chị chạy xe máy đằng sau máng hai cái giỏ lặc lè. Người ở chợ quen với cảnh tượng này, ai cũng khen vợ lãnh đạo mà chịu cực giỏi, chớ vợ mấy ông kia, giờ này còn ngoài sân quần vợt. Chị Băng cười, ngồi không trông vào đồng lương của ổng, thì chịu không nổi.
Chuyện chị Băng nuôi cá sấu xây biệt thự ai cũng biết. Ai cũng nuôi cá sấu mà rồi không ai xây biệt thự.
*
Dự sốt cao, nằm lại một chỗ quen ở Lạc Mai, chuyến hàng đi Đập Đá chiếc Landu trống chỗ. Gã không thấy chênh chao mảy may nào. Gã quen với sự tạm bợ và vô định, ngày mai thức dậy, có thể Dự đã vĩnh viễn về nhà, vì đã tìm được bà nội dù còn sống hay chỉ nắm xương tàn rã. Cô gái đang ngồi đây cũng vậy, cô lên xe bằng cái ý nghĩ bất chợt nào rồi một ngày, vì ý nghĩ bất chợt, cô sẽ lặng lẽ xuống xe. Chỉ còn gã và những con đường. Gã không muốn từ bỏ cái cuộc sống này, khước từ mọi cơ hội trở lại như người bình thường, cạo râu cắt tóc, ăn mặc thẳng thớm chỉnh tề, sáng sớm thức dậy uống càphê, ăn phở rồi chạy xe tới sở làm, yêu một người và lấy làm vợ.
Xe đi một qua một cánh rừng cao su đang thay lá thì mưa nhỏ. Mắt ngó qua cửa kính nhòe nước, cô gái thốt nhiên nói "Biết mưa chừng nào rồi ?
Giọng cô đầy ngượng nghịu. Gã buồn cười, chắc đã lâu lắm ngôn ngữ rời bỏ cô gái này, và khi chúng ùa trở lại trong một cơn lốc, cô phải xóc xổ khối hổn độn đó, nhặt lấy từng từ chắp nối thành câu.
- Để tôi đào cho.
Buổi cơm tối, sau khi chuyển hàng xuống xe xong, cô giành bới cơm. Gã suýt mắc xương vì chữ "đào". Gió thổi ngoài kia cồn cào, vẫn là cái thứ gió đau đớn buốt lạnh vì bị xé nhỏ. Gã lái xe chậm rãi tìm nhà trọ, cái thị trấn nhỏ bắt đầu đóng cửa tắt đèn.
*
Nằm nhìn trăng trôi trong rẫy bắp, em từng nghĩ, khi mình nói trở lại, câu đầu tiên là gì ?
- Mầy đừng liếm chân tao, nhột lắm !
Câu đó em sẽ nói với con Cò. Nó hay làm em tỉnh giấc bởi sự hí hửng vô chừng, chỉ là bóng trăng, lá rơi hay mùi một con chó cái xa xa… Cái lưỡi ướt lạnh của nó bắt đầu lượn lờ lên gót chân rồi lên đến bắp chân, đầu gối em. Những cơn rùng mình từ đó chạy lên đỉnh đầu, làm nên một vòng sóng ran cả người.
Em ghét cảm giác đó, nên em định nói với con chó. Nhưng rồi em lại nói câu khác :
- Đi.
Đó là buổi sáng em bỏ lại rẫy bắp sau lưng, đi dọc theo con đường chập chờn lau lách, xập xòe bướm bay. Em tới một ngã ba, gặp một cái quán nước thưa người. Con Cò lẽo đẽo đi theo, thật ra cái từ "đi" nó chẳng hiểu, vì em chưa từng nói, nhưng nó biết có cơn đau nào đó đang xảy ra, bằng tín hiệu của mắt, của những ngón tay, của cái hất mặt, nhíu mày, của bước chân oằn trĩu…
*
Ba ngày nằm bệnh với Dự như bằng ba năm. Nằm trong chăn, cậu hình dung chiếc xe tải sáng nay đi ngang qua một ngôi miếu nhỏ, bà nội Dự đang nằm ngủ trong đó, nón lá rách úp mặt, đầu gối trên chiếc bị bàng cũng rách. Bảy năm lưu lạc rách nát thân già. Mình đã bỏ qua cơ hội tìm thấy bà, ý nghĩ đó làm Dự không yên. Ngày mai, cũng qua cung đường đó, cái miếu đó, nhưng bà nội không còn ở đó nữa. Những con đường đã cuốn bà trôi cùng chúng.
Dự cầm tấm hình của bà nội, nó đã quăn queo, nhàu nát. Hàng trăm bàn tay đã cầm nó lên, khi trả lại kèm theo những cái lắc đầu. Ngày Dự đi khỏi nhà với cái đầu cạo trọc bóng, như một lời thề, "không tìm được bà nội con không về…". Mẹ Dự sụt sùi, "thiên hạ mênh mông, bà nội vong gia thất thổ, biết đâu mà mò ?"
Dự không tin thiên hạ lại rộng hơn cái thành phố này. Lòng cậu bị một cái dằm thép cháy đỏ trong đó, cháy từ buổi trưa Dự bỏ cuộc bi-a với bạn để chạy về nhà coi chừng bà.
- Bà nội báo hại con quá. Phải bà chết sớm con khỏe.
Dự ngờ rằng, vì câu nói trong lúc dằn dỗi này mà bà nội bỏ đi. Dự phải tìm bà, quỳ dưới chân xin lỗi… Bây giờ thì cũng chẳng nhớ sẽ nói với bà những gì, khi gặp lại. Tất cả đã mỏi mê, Dự tìm bà chỉ vì muốn tìm, vậy thôi.
Nằm quẩn quanh hết giường tới võng, không lái xe, không khuân vác, không lau dọn, trêu ghẹo cô giúp việc của chủ nhà rồi cũng chán, Dự thấy rã rời, ừa thì mai đây tìm được bà nội, rồi sau đó ? "Sau đó" là một cái một khoảng trong veo vô tận.
Buổi chiều chiếc Landu quay lại, Dự nhảy ào ra cửa, mừng húm, cảm giác xa lâu lắm rồi. Một phần là do cô gái, khi trở lại, cô đã biết ngọng ngịu nói vài câu ngớ ngẩn, "có mắc rảnh không ?" hay "nút áo rời kìa". Dự mắc cười quên cơn ớn lạnh, lúc lau dọn chỗ sàn xe thủng, cô gái ngậm ngùi "chỗ đây rách rồi…".
*
Em chẳng nhớ là mình đã nói câu gì khiến ông Râu cười, hôm đó. Bắt đầu từ miệng, nụ cười bùng ra, gương mặt ông rạng rỡ, như có một hòn than sẽ sàng cháy, làm rựng hồng lên những tro lạnh chung quanh.
Lúc lời bật ra khỏi môi, thì em đang nghĩ tới tổ chim sâu trên nóc căn chòi cuối rẫy. Chẳng biết chuyện ở đâu mà chúng nói ran cả ngày. Em hình dung vầy, con chim chồng nói :
- Anh vừa gặp một con voi chết trong rừng.
Vợ nó hỏi ngay, trời sao con voi đó chết ? Vậy là giả thuyết được đặt ra, và câu chuyện trở nên bất tận, hết con voi thì tới đàn kiến đang bò đi, chắc là bò tới chỗ con voi, rồi nước suối chảy vòng qua xác con voi, rồi cái tán cây phía trên con voi. Hôm sau thì tới chuyện một cành hoa rụng. Câu chuyện trong trẻo và vui nhộn không bao giờ chấm dứt, bất chấp mưa, nắng, bất chấp gió lẻ gió bầy. Em luôn nghĩ, không biết trên thế gian này có con chim nào tìm tới cái chết vì tiếng hót của con chim khác ? Có con chó nào bỗng dưng đâm đầu vào đá vì tiếng sủa của con chó khác ? Có con bò nào nhảy xuống sông tự chìm chỉ vì tiếng kêu của con bò khác ?
Tiếng nói của con vật không dùng để giết nhau, em nghĩ. Cho đến bây giờ em cũng nghĩ vậy. Nên khi em nói theo kiểu - của - chim, đã làm hai người họ phì cười. Có lần em đã học nói giống con người, chỉ vài từ ngắn ngủi thôi, nhưng em mướt mồ hôi, kiệt sức :
- Sao ông buồn vậy ?
Và người được hỏi cau mặt, phun một bãi nước bọt. Có vẻ ông không thích tiếng người.
*
Những lúc cạo râu, gã mới nhìn lại mình. Trong gương là khuôn mặt của cha gã, đôi mắt sâu của mẹ và đôi mày rậm ngang tàng của người anh trai. Tất cả họ đã chìm, hoặc trong biển sâu hoặc trong lòng nước Mỹ.
Gã còn lại những con đường. Gã đi làm lơ xe khi chỉ mới mười ba tuổi. Với vài ba bộ đồ, gã đi khắp, đi theo kiểu con vắt trong vườn chuối mùa mưa, chỉ cần một điểm tựa, con vắt búng mình đến một nơi và từ nơi đó, nó lại vươn ra đi tiếp. Chỉ khác là vắt cần máu để sống, gã chỉ cần được đi.
Dự gặp gã lần đầu thì gọi đại ca, bởi "em nhìn là biết dân giang hồ liền…". Với vẻ lì lợm cố hữu, lấy xe làm nhà, lấy những con đường làm bầu bạn, lâu lâu ghé qua ngấu nghiến đàn bà, lơ đảng những món tiền kiếm được... gã giang hồ hơn mọi giang hồ.
Giờ dù quanh quẩn đi lại ở mấy chợ quen, nhưng gã vẫn không lấy làm buồn. Những con đường đó vẫn biến đổi mỗi ngày : cô chủ quán đã cắt tóc cao, cây me tây thay lá, thêm cái tủ thuốc lá được đặt bên vỉa hè, những thùng rác được thay mới, một bảng hiệu đã sơn lại, vài cái đèn đường tắt, panô giăng ngang đầu "Giải quần vợt mở rộng" hôm nay đã bị mưa làm rơi mất chữ t…
Chẳng bao giờ những con đường lại biến mất sau giấc ngủ, như cả nhà biến mất, khi gã lên tám tuổi.
*
Đôi lúc em quên là em - có - buồn. Đó là hồi em ở Mai Lâm. Công việc của em là không cho đàn bò bên xóm ghé qua rẫy ông Tám Nhơn Đạo. Vừa ngó chừng, vừa làm cỏ rẫy, bón phân. Tới mùa thì đánh lá mía, hay thu hái bắp, đặt hom khoai mì. Khi nào đói thì vô nhà sau ông Tám, lục cơm ăn, có khi gặp ông đang chẻ củi, làm thơ, có khi nhìn thấy bà ngồi trên xe lăn, coi phim Hồng Kông. Sau đó thì thấy buồn ngủ, lăn ra chiêm bao thấy mình nói chuyện với con Cò, nghe con Cò than, con Vện lúc này chắc thay lòng, không thương nó nữa, nên lãng tránh nó. Việc nói chuyện với con này con kia làm giấc ngủ trở nên hấp dẫn và dễ chịu.
Em ngủ bất cứ lúc nào và dậy bất cứ lúc nào, không ngày không đêm, không một nỗi nhớ nào rõ ràng, và đủ sâu để cho em ngồi nhìn vào. Gió bầy đi rồi gió lẻ tới, mỗi mùa gió có một tiếng nói riêng, nên âm thanh chung quanh em lúc nào cũng thanh thao và trong trẻo.
Lâu ngày, không còn giật mình vì tiếng người nữa. Nên cái bữa ông Tám ra chòi, em không hay. Bỗng dưng thấy mình bị ép chặt xuống tấm ván mối ăn lấm tấm, và một bàn tay lần vào áo em, thì em giật mình. Em gào lên, nhưng giọng tắt trong bàn tay khẳm mùi rượu, thịt và nước tiểu. Cũng không chắc cái âm thanh bỏng rát trong cổ họng em là tiếng người, và nếu cố hết sức, thì từ chòi rẫy, chỉ người đàn bà đang ngồi xe lăn nghe thấy. Có thể bà cũng không biết đó là tiếng kêu của em, vì nghe như tiếng chó tru, tiếng chim đêm thảng thốt, tiếng mèo gào trong bụi cỏ…
Em lặng lẽ làm đám tang cho ông Tám Nhơn Đạo. Những gì em giữ cho ông đều biến mất, vụt tắt, nắm xôi ông trao cho em ở góc chợ Mai Lâm, tấm vải ông xé áo mình để bó tay em hôm bị dao cắt, cái góc thức ăn mặn sẵn ông để dành cho em trong tủ chén, giọng ngâm Vân Tiên sảng khoái vẳng từ trong nhà những sớm mai, dáng ông ngồi nhẫn nại gội tóc cho vợ những ngày nắng ấm…
Giờ một người đàn ông xa lạ đang lúi húi trên em, như con Cò thường lè lưỡi liếm để gọi em than thở chuyện đời nó. Lạ lùng, em không còn cái cảm giác ran khắp người. Giống như cảm giác đó đã chết. Từ khi nghe lại tiếng người, mùi người.
Đó là lần đầu tiên em phát hiện ra, vài thứ ở đây tên gọi đều không đúng với bản chất, thí dụ như con Cò thật ra là con chó, con Beo chỉ là một ả mèo mập ú và lười, rẫy bắp nhưng mùa này tàn bắp, chỉ cỏ và gió tơi bời…
*
Không ngờ bà nội Dự lại ở trên con đường mà phải trên mười lần, chiếc Landu chở hàng xuôi ngược qua đó. Một con đường chạy giữa bờ biển và những ngọn núi đá vôi, nhiều chùa trên núi và nhiều sương khói trong chùa. Dự luôn lặng lẽ khi đi trên con đường này, mà trước đây, cậu ta nghĩ, “chỉ vì thấy nó đẹp, mà buồn…”.
Cho đến trưa nay thì Dự cũng nghĩ do con đường ít người, hiu hắt nên đi qua đây cậu ta thấy bồn chồn. Khi dừng lại, vào quán nhỏ uống thứ cafe pha bột bắp lạt nhách, nội Dự sai một người đàn bà bưng con hải sâm ngang qua, Dự thấy lạ quá gọi vào nhìn cái con vật lơ đãng vật vờ trong nước như một tảng rêu sẫm màu. Nội Dự kêu chị này nói một câu cũng bâng quơ :
- Thấy mặt cậu giống một bà già hồi trước lang thang khúc này.
Dự nhìn chị trân trân, đồng tử như sắp lăn ra ngoài, cậu ta rút tấm hình từ trong áo ra, ngập ngừng, chị ơi có phải người này. Nội Dự đã dặn trước, nên chị bán hải sâm gật đầu liền, thì bà này nè.
Chị dẫn mọi người đến chỗ bà nội Dự. Một ụ đất bên đường, được đắp bằng tấm áo cỏ chen lẫn hoa mười giờ đỏ. Hoa là do chị trồng. Rồi người trong xóm kéo ra, họ gật gù nói đúng rồi.
Dự phục xuống mồ, hoa nát trên tóc, khóc rống lên. Gã lặng lẽ ngồi nhổ cỏ. Cô gái chạy về xe và lấy một chiếc khăn tay cũ, đã phai màu, dúi vào tay Dự, “cái đây để khô...”
*
Có thứ âm thanh của con người vẫn còn đẹp, đó là tiếng khóc. Có bữa em vào nhà ông Tám Nhơn Đạo kiếm cơm, em nghe bà Tám khóc. Ông đi đám giỗ.
Tiếng khóc của bà óng suốt, đen nhức nỗi buồn, nó không lẫn màu chua xót, màu tức giận, màu tủi hờn… Thăm thẳm. Đen nhức. Như một cái biển sâu và tối mà bà ngụp lặn chỉ với đôi tay. Em lặng lẽ bưng tô cơm ngồi ngoài hè, chỗ gộc cây ông Tám kê bữa củi đã bị băm nát, uống tiếng khóc ròng ròng.
Rồi một bữa, cũng ngay chỗ đó, cũng vẫn tô cơm khô rốc, em lại nghe tiếng khóc, đã đã đục ngầu nhàu nát, sau khi bà nghiến răng :
- Con đĩ ! Sao mầy còn lảng vảng ở đây ?
Em vỗ đầu con Cò. Đi. Và nó theo em tới cái quán ở ngã ba. Vài người biết em là con nhỏ câm đang giữ rẫy cho ông Tám. Họ ngạc nhiên thấy em định đi đâu đó mà không có tiền. Một người có giọng nói rất dịu dàng cầm tay em nắn mãi, trời đất ơi, thiệt là tội, lạc cha lạc mẹ, về với chị đi, không làm gì nhiều, mà chị lại trả công.
Em bỗng thấy ngẹt thở. Em cảm thấy mùi mồ hôi, hơi thở trơn láng, nhịp tim trôi tuột, những thớ thịt rùng rùng nhảy nhót trên gương mặt của chị, bụng em quặn lên, cổ họng cong oằn, em nôn. Cơn nôn đầu tiên bắt đầu ở đó, quán nhỏ ngã ba đường, nhiều bụi và ruồi. Lúc đó em không biết nó sẽ lặp lại dai dẳng sau này, ở những nơi có người, đông người.
Con Cò quỳ dưới chân em, từ tốn liếm láp đống nôn, cơm khô và cá khô. Cái lưỡi dài và mềm của nó như thấu vào lòng em đang khô rốc. Em thấy mát rượi từng vệt. Vài chiếc xe dừng lại, cánh cửa mở ra lố nhố những người. Cái cảm giác tràn lên, trào ngược làm em tuyệt vọng.
Em quay lại căn chòi, với con Cò. Ba ngày sau một người tìm đến, anh nói anh người của chương trình truyền hình “Giã từ lưu lạc”, “cha em nhờ tôi tìm em…”
*
Về nhà. Dự đã rời khỏi chiếc Landu trong một sáng nhiều mây ở chân trời, có vẻ cả ngày sẽ mưa. Không phải tiễn xa, chỉ cần mở cửa xe tải và đu qua, chui vào chiếc xe khách, vậy là thành một cuộc đi. Nhẹ nhỏm. Bình thường. Gã hầu như không vẫy tay. Cô gái ngó Dự, vẻ mặt vẫn lãnh đạm và có chút ngơ ngác. Xe đi rồi cô nhắm mắt ngay, có vẻ cô mệt mỏi vì phải mở mắt nhìn lâu như vậy.
Mưa nhanh chóng phủ lên chiếc xe tải một cái bạt trắng xóa. Gã hút thuốc chậm rãi, thoáng nghĩ về thằng nhỏ phụ xế cũng đang chung một cơn mưa, thoáng nghĩ từ điển cuộc đời mình quá giản dị, nó không có chữ “về nhà”. Cũng như “gửi thư”, “mua quà”, “nhà bếp”, “sinh nhật”…
Dường như từ trang đầu tới cuối, chỉ vài cụm từ như “ra đi”, “lên đường”, và “trôi”.
*
Xe dừng trước một cái cổng cao, kín bưng, cha nói, vô đi con, đây là nhà mình. Em có chút không tin. Em xăm xăm đi tìm cái hộp giấy đựng sáp đèn cầy em đã lấy trên quan tài của mẹ. Nó không còn ở trong góc phòng, giữa hai tủ áo. Sáp đèn cầy nham nhỏ đỏ như máu đông lại, hơ trên lửa, nó sẽ chảy thành dòng. Hồi nhỏ, em đã từng hình dung, nếu đem mẹ ra làm cho ấm, máu mẹ sẽ lại chảy trong người.
Không tìm được hộp sáp, em đã tin thật sự đây không phải là nhà của em. Nơi này thuộc về hai đứa trẻ con của cha và chị Băng, vì chúng biết xoay vòi về phía nào để nước ấm áp, bật nút nào thì ti vi sẽ có những người đàn ông mình trần đánh nhau trong một cái chuồng bằng dây.
Thật may em thấy thích chỗ của những con cá sấu. Ngồi nghe xương của những con cá nhỏ, rạn nhừ trong những cái hàm đầy răng nhọn, và nhìn từng giọt nước mắt chảy ra. Cá sấu không khóc cho những con mồi, dù chúng vẫn chảy nước mắt. Thật kỳ lạ, em không nôn vì điều đó, có lẽ do cá không nhiều máu và không có tim, không mồ hôi không nước bọt, nên em không bị khối hổn độn đó giày vò. Như hôm ở trường quay, khi người ta mời ông Tám Nhơn Đạo vào, và ông nói ông tìm thấy em ngồi đói rách trong chợ như thế nào, ông đã nuôi nấng, yêu thương và che chở em ra sao :
- Vợ chồng tui đơn chiếc, nên tui con con nhỏ như con đẻ của mình vậy.
Ông nói. Và một cái vòi đắng nghét từ miệng em phụt ra. Cả trường quay nhốn nháo.
Rốt cuộc, nếu như có gặp những con chim hót dối rằng mùa xuân đã về, những con chó nhìn bóng trăng sủa dối rằng kẻ trộm tới… thì em sẽ không sao.
*
Hay là đuổi con nhỏ đó đi đi. Trong lúc xoay nhau trên giường, người đàn bà nghẹn ngào bảo vậy. Gã với lấy áo, hỏi, ghen à ? Chị bảo không, tại nó ma quái kỳ cục quá. Nhưng gã thấy mình đã xong. Gã ngồi dậy đốt thuốc, chậm rãi nhìn chị, nhìn lại một lượt căn phòng đã che chở cho gã khỏi gió lẻ đêm nay. Những mạng nhện rối tung đòng đưa theo cọng dây điện nối chụp đèn, trên những tờ báo ván vách là những khuôn mặt nhìn đăm đăm vào gã. Mỗi khi vào lại căn phòng này, gã không nghĩ là mình đã đi hàng chục ngàn cây số, trong hai năm quen chị. Những người trên vách vẫn râu vẫn tóc, vẫn một ánh nhìn, một nụ cười, một vẻ đăm chiêu.
Nhưng giờ gã sẽ không còn gặp lại họ, cũng như chị. Chị đã bước qua giao ước, chị yêu. Những ghen hờn bắt đầu giống như xảy ra trong một gia đình, mà gã thì không có phần trong gia đình đó.
Gã ra xe. Cô gái ngơ ngác mở mắt ra thấy trời vẫn tối mịt mù, cô xuống xe vào nhà rửa mặt. Chị chủ nhà ngồi chải tóc, nói vọng ra :
- Ăn ngủ dầm dề với tụi lái xe tải đường dài, thứ con gái tệ hơn giẻ rách…
Cô gái lặng lẽ dấp nước trên mắt, rồi đi. Chiếc Landu sẽ không bao giờ de đít đậu lại ở khoảng vỉa hè lông chông gạch vỡ. Người đàn bà kia cũng biết điều đó, nên rấm rức ném cây lược vào bức vách thẳm suốt những mặt người.
Xe tới Lạc Mai lúc hừng đông, Dự vẫy rối rít, cậu ta nói cậu đã chờ ở đây mấy ngày rồi. Ngồi vào cái chỗ ngồi quen thuộc, cậu ta vỗ vai cô gái, bằng điệu bộ hết sức tự nhiên, “phải dạy con nhỏ này ăn nói đàng hoàng mới được…”
*
Em hay nhớ giọng nói của bà cụ có hai túi áo ấm mùi trầu. Em cũng thích câu anh Tìm Nội gọi em mỗi sáng, “nè thức dậy đi, đừng có chết à nghen…”. Em nấn ná nhắm mắt thêm chút nữa, để nghe anh này thảng thốt, “ê, bộ chết thiệt hả ?”. Thích cả người đàn ông bán báo dạo không quen biết, một bữa ghé mắt qua cửa kính, tần ngần, “nằm vậy tê chân sao chịu nổi…?”
Ban trưa, nghe tiếng rao chè ơi hỡi ơi hời, hay tiếng gọi nhau vời vợi, em bỗng thèm nói – giống – người. Để khi anh Tìm Nội sụp khóc bên mộ nội, em sẽ vỗ về, bảo “anh cứ khóc, tôi ngồi cạnh đây, tôi chờ”. Em cũng muốn nói với ông Buồn, em thích ông cười, những lúc đó máu chảy trong ông thật sự giống như người sống.
Nhưng nói – giống – người thì em cũng phải nói những lời dối, gây đau, nói để giết nhau… Biết đâu, em sẽ vừa nói vừa nôn thốc tháo. Biết đâu em vừa nói vừa khóc.
Những thứ em đã mất, chỉ tiếng nói em còn nghĩ tới, đôi khi. Có buổi chiều ngồi ở cabin, em nghe trong nhà, chị đàn bà bảo ông Buồn :
- Lam ăn nhiều đi, cá rô mùa này béo lắm. Hồi sáng tôi kiếm mấy chợ mới mua được mớ bông so đũa này để nấu chua. Biết chiều nay cậu ghé…
Chị còn kể nữa, những chuyện bình thường đã xảy ra sau lần gặp gần nhất, cái cầu thang gãy, nhà đằng kia bị trộm, chị bị sổ mũi mấy hôm… Tiếng đũa khua vào chén. Tiếng muỗng chạm vào đáy tô. Hai con chó hục hặc giành xương. Một gia đình đầm ấm luôn có những âm thanh đó, cả những câu chuyện bình thường vơ vẩn được kể bằng kiểu – của – người.
Em bỗng cuộn lại vì một cơn gió lẻ đi qua, buốt tận xương. Nhưng chỉ khoảnh khắc thôi, sau đó thì ông Buồn ra xe. Tối nay ông không ngủ lại với chị, chỉ vì bữa cơm quá đỗi đầm ấm, như một gia đình.
Ông không thích sống và nghe kiểu – của – người, điều đó gần như chắc chắn. Em không còn băn khoăn gì nữa, em sẽ vĩnh viễn nói kiểu của chim, hay của những con bò…
*
Dự khoe, “em dọn dẹp lại cuộc đời…”, hôm đó cậu ta leo lên chiếc xe tải với một mái tóc được gọt cao, lộ ra cái gáy trắng kỳ dị trên cái nền đen đúa. Khi quay trở lại với đời du mục, Dự chỉ nói, “ở nhà cà nhổng không biết làm gì ra tiền, nên theo đại ca thêm ít lâu…”. Dự không kể về cái đêm về nhà đầu tiên, trằn trọc trước một ngày mai trong vắt vô tận, bỗng cậu ta thấy cô gái ẩn hiện phía mịt mù.
Dự nhớ cô, nhớ một cách kỳ lạ, làn da xanh tái, những cơn nôn vô cớ, những câu nói tức cười lộn ruột, nửa ngày ngủ nửa ngày mơ màng… Nỗi nhớ làm đêm thật dài.
Sáng sau Dự lên Thổ Sầu, hỏi thăm cánh chạy xe tải đường dài, họ nói chiếc Landu LT1257 đậu ở ngã tư Xuyên Mỹ hôm qua, nhưng sáng nay đi đâu chẳng rõ. Một ông tài xế quen vỗ lưng Dự, “tao tính rủ đại ca mầy lên biên giới chở mấy chuyến điện máy Trung Quốc. Gặp nó thì nhắn tao muốn gặp bàn chuyện mần ăn…”. Dự gật gật, biết là chạy tới chạy lui thì không tìm được, người Nam kẻ Bắc. Dự nằm chờ ở Lạc Mai.
Ngày dài nối ngày dài, cậu ta bỗng bần thần, có khi nào họ sẽ không quay trở lại, có khi nào trong phút bốc đồng không cơn cớ, đại ca chạy chiếc Landu vào rừng thẳm mãi mãi, với cô gái. Chuyện gì đã xảy ra vào những ngày Dự về nhà ? Dự tưởng tượng ra vài tình huống bình thường nhất giữa người đàn ông giang hồ sành sỏi và cô gái lưu lạc, và những vơ vẩn đó bện lại, thành một sợi dây thòng lọng rất dai, từ từ siết nghẹt họng cậu ta.
*
Có rất nhiều trạng thái tình cảm mà em không nghe thấy, hoặc có thể nghe mà không hiểu đó là gì. Em cũng chẳng muốn mình biết hết vì không chắc em nôn ít đi hay sẽ nhiều hơn. Một bữa xe dừng ở ngã tư chợ, em rời khỏi cabin lau kính xe trong lúc anh Tìm Nội và ông Buồn bốc dỡ những thùng hàng. Chợ trưa đông ruồi, ít người. Thưa thớt vài người đàn ông để trần đánh bài, gần đó có mấy chị bỏ sạp tụm lại tỉa chân mày, nhổ tóc. Một người thanh niên dáng vẻ u ám, gầy nhom ghé lại, thì thầm :
- Em tưởng bỏ tôi dễ dàng như bỏ một con chó sao ?
Và một chị gục xuống, trong âm thanh róng riết kinh hoàng. Máu chị phun ra thành vòi từ mũi dao xuyên qua ngực.
Em nghẹn đi trong nỗi ân hận, em đã nghe nhịp tim người đó, hơi thở người đó khi anh ta tiến lại gần. Em nghe trong anh ta đang sôi lên, máu ập vào tim như sóng, và trái tim đó như sắp bục ra. Em cảm giác được nhưng em không biết tên của những biểu hiện đó là Giết Chóc.
Có quá nhiều thứ thuộc về con người mà em không biết. Như anh Tìm Nội khi từ nhà quay trở lại, nhịp thở trong anh rất khác, như hoang mang, như thắt thẻo, và trái tim đôi khi lay lắt, lúc lại bồn chồn. Em muốn hỏi đó là gì, nhưng rồi cứ nói kiểu - của - chim :
- bị lạ lắm.
*
Dự nạt :
- Biết chừng nào mới chịu ăn nói tử tế hả trời. Phải nói vầy nè, “lúc gần sáng mưa lớn quá”.
Cái câu mà cô nói lúc Dự gọi cô dậy là ““hồi chút xíu nữa là sáng mưa trôi lắm”. Dự rầy rà suốt. Cậu ta thấy mình hạnh phúc khi rầy rà, cái cảm giác được che chở chăm sóc cho ai đó đã mất từ khi bà nội bỏ đi, giờ trở lại tràn đầy.
Và giờ thì Dự có nhiều thời gian cho việc đó. Chiếc Landu đã bị rã ra ở một xưởng sữa chữa ô tô, gã muốn nó được sửa sang trước khi lên biên giới, với những con đường núi quanh co. Cô gái buộc phải rời cabin, sống như người, ngủ trong căn phòng kín bưng bốn phía.
Những cái vách bọc quanh gây cảm giác của một mái nhà. Gã thấy khó ngủ. Gã ngồi đu bên cửa sổ phòng trọ, lặng lẽ nghe Dự ngáy vang. Cái ý định trở lại những ngọn núi làm gã bồn chồn. Gã nhớ những con đường như kẽ chỉ bên bờ vực, chạy ngoằn ngoèo trên những triền núi đá vôi. Đôi tay người lái xe như múa. Gã nhớ tiếng còi xe cứ nấc lên theo từng dốc đá, loang mãi ra thành một vòng sóng buồn hiu mỏng dần lên đỉnh núi. Rồi chúng rơi từng chùm từng chùm nặng trĩu xuống đáy vực sâu nhói.
Hồi lái xe khách xuôi ngược cung đường đó, gã thích bấm còi xe, như những tiếng gọi chơi vơi. Gã không phải người gọi, mà cũng chẳng gọi bất cứ ai. Chỉ treo tiếng kêu vời vợi ở lơ lửng tầng trời. Ở đây một tiếng động nhỏ cũng được hồi đáp, hất một viên đá rơi xuống, tiếng đá lăn cũng tinh tang rất lâu. Nhiều khi dừng bên mé vực, gã cất tiếng kêu : “Quyên ơi !” và đá núi vọng lại “ơi…ơi…” rợn ngợp.
Ở trong cái bệnh viện huyện bì bỏm nước rong tràn từ sông, gã cũng gọi Quyên ơi hàng trăm lần, nhưng người đàn bà vẫn im phắt, trái tim ngưng lặng và cái bụng đã gò lên tròn tròn sau áo không còn chút xao động nào. Gã đã không ngủ suốt hai ngày đêm trước đó nhưng chỉ cần quay lưng lại, họ cũng bỏ đi. Chỉ còn lại những con đường.
Nỗi nhớ không cơn cớ, cứ gặm nhấm giấc ngủ. Khi sắp thiếp đi, bỗng nghe âm thanh của những bánh xe xé những vũng nước trên đường trong khi vút qua, và còn lại tiếng ì ì rất xa. Gã nhớ ra mình đã xa chiếc landu ngót tuần.
Gã đốt nối thêm điếu thuốc. Cuối dãy là phòng cô gái, cô đang nôn, cái vách phòng trọ bằng ván ép mỏng tang làm cô quá gần với con người. Gã hình dung vẻ mặt xanh lướt và bất động của cô. Gã đẩy cửa bước vào.
*
Âm thanh của những cái cửa khép lại không bao giờ giống hệt nhau. Bởi nó không đơn giản chỉ là tiếng gỗ nghiến vào nhau, hay cú cọ sát của kim loại gỉ sét, mỗi cánh cửa khép là một ám ảnh.
Em nhớ cánh cỗng nhà, hôm em khép lại và đi. Nó không một tiếng động, êm ái như một cú lướt. Nhưng em nghe tiếng thì thầm của chị Băng trong phòng hai đứa con mình
- Con nhỏ đó thể nào cũng chết sớm. Tụi con buồn làm gì.
Dường như những đứa trẻ băn khoăn vì những món trang sức đắt tiền mà em đang treo trên người, và vài phút cha ghé qua lặng lẽ xoa đầu em mỗi khi ăn tối xong. Bàn tay cha rất mềm, có lần để tay em trôi tuột trong một hội chợ đông người, và cuộc đi bắt đầu.
Giờ thì em tự xé tay mình khỏi tay cha, bằng một lần khép cửa.
Ở cái chòi trong rẫy gió Mai Lâm thì không có cửa, chỉ là một cái mành may bằng bao ximăng, cứng và sột soạt suốt đêm, không phân biệt được âm thanh đó do con Cò, gió hay của con người. Nó trơ khốc như nhau.
Rồi khi ông Buồn bước vào căn phòng trọ hẹp và ngộp thở, em bỗng phát hiện ra âm thanh cửa cũng liên quan nhiều tới bàn tay khép cửa. Nghe vẫn gọn ghẻ, nhẹ nhàng như khi ông dập cửa xe.
Ông lại gần em, bàn tay đặt lên cổ em làm ấm ran chỗ đó, rồi ngồi bệt ở gần cửa, hút thuốc. Nhịp thở sâu và tối của ông gần làm khỏa đi khối hổn độn của đôi người ở phòng bên. Em giấu đi cái túi nôn đã đầy, ngồi nhìn gương mặt lóe lên theo đốm lửa trên môi ông, cho đến khi mỏi mê, em gấp mình lại thành ba khúc, như trên chiếc Landu, và ngủ. Khi khép mắt vẫn là đốm lửa lập lòe.
Sáng sau em dậy rất trễ. Anh Tìm Nội không gọi.
*
Con đường chỉ dài chừng ba mươi bước chân. Đi hết quãng đó lại hiện ra con đường khác cũng ngắn ngủi. Sương vây bủa, mịt mù. Lâu lâu nghe tiếng xe máy chạy lướt qua, ma quái, chỉ nghe âm thanh rồi một khối đen xé sương lao tới, sau đó vẫn còn cảm giác lờ đờ quanh thắt lưng, nhưng sương đã phủ mất người.
Gã đi đằng trước dẫn đường, cái đèn pin trong tay loang loáng. Đoạn đèo từ đây lên đỉnh Puvan nhiều cua khúc khuỷu, thắt ngặt. gã đã lái xe đi qua đoạn khó khăn nhất, giờ thì trao tay lái cho Dự. Gã nhớ con đường này, nhớ từng tảng đá, từng khúc quanh. Mười năm gã múa đôi tay mình trên tuyến đường này, dù sương cố tình lấp đi bằng cái áo đục ngàu của mình, gã vẫn nhận ra, dưới chân mình là mé vực. Gã huơ huơ đèn. Dự lờ đờ trôi theo.
Tay Dự tê cóng, vì lạnh và vì các búi cơ căng ra lần dò theo ánh đèn hiệu phía trước. Cậu ta thấy mệt mỏi rã rời. Không biết bao lâu thì mới ra khỏi sương mù, ra khỏi con đường rối bời này. Bên kia núi có mặt trời, có lửa hơ ấm lại người, có quán cơm với những thức ăn quen. Qua khỏi ải sương này, có ai đang đợi Dự ?
Không ai cả. Bên kia núi, với Dự còn mịt mù hơn, óng ả một nỗi tuyệt vọng, không một bóng người. Bảy năm Dự cắm cúi đi trên đường vì tin có bà nội chờ mình ở đâu đó. Rồi bà nội mất, Dự có cô gái đưa tay vẫy đằng xa. Nhưng một sáng thức dậy Dự thấy ruột gan mình bị bứt lìa bởi người đàn ông bước ra từ phòng cô. Và những đêm sau đó.
Cô sẽ không bao giờ ở trong ngày mai của Dự, dù vẫn ở bên Dự phút này, nằm thiu thiu trên người đắp tấm áo của người đang cầm đèn đi trước chừng mươi bước. Dự bỗng nghĩ, nếu mình cho xe lao vào anh ta, nếu mình lao vào như một tai nạn trong lúc mình không kiểm soát, trong lúc sương mù rình rập, trong cái lạnh cóng tay. Mình chỉ cần trôi nhanh hơn, và anh ta thì nằm xuống mãi mãi với những con đường, như anh ta đã nói, một chiều nào đi qua đám tang, Dự hỏi, tới hồi đại chết, đại ca chôn ở đâu ? Anh ta thản nhiên, bên đường.
Dự mím môi, nếu trôi thật dài, bên kia núi biết đâu có người đang đợi.
*
Em nghe một đoạn âm thanh rất nhanh bên mình, và em kịp nhớ nó giống hệt của người thanh niên đâm thọc dao vào tim chị đàn bà giữa chợ. Em choàng dậy bởi cơn nôn cồn cào, ông Buồn đang đứng sững sốt cách một khoảng sương. Ông ngơ ngác vì xe đi xốc tới quá nhanh. Em níu lấy cánh tay anh Tìm Nội bằng tất cả sức lực của mình.
Trong cơn nôn đắng đót, em thấy mình thực sự trôi, không ánh đèn của ông Buồn soi, trước mặt là một khoảng tối, tối và rồi, rất tối. Tối.
Trong bóng đêm vô tận, em nghe Tìm Nội nói, thật ra anh bây giờ đã là một con ma, “con nhỏ này…tôi chỉ định giỡn thôi mà…”.
Và em, cũng là con ma, ấm ức không hiểu, sao người ta có thể đem chuyện giết nhau làm trò đùa.
*
Sương khép dần, tự vá víu cái khoảng trống mà chiếc xe tải để lại trên khúc đường trơn ướt. Gã quỳ bên bờ cỏ, mặt ướt đầm đìa. Gã đã không ngủ, không quay lưng lại, thậm chí không chớp mắt, cũng không sao ngăn lại một cuộc đi. Tiếng kêu xé vọng lại từ vách núi đã vĩnh viễn tắt. Chỉ những con đường còn lại, những con đường không bao giờ hỏi “Sao ông lại buồn ?”, những con đường không biết nhảy chồm lên vai gã chia sẻ nỗi vui bất chợt.
Gã lần ra mép vực, chơi vơi và rã rời trong gió lẻ, sương mù, đá và cây…/.

Thể lệ Cuộc thi Tản văn năm 2024 trên Viết SÁNG TẠO

  Công bố thể lệ Cuộc thi Tản văn năm 2024 trên Viết SÁNG TẠO   Thưa bạn đọc bạn văn! Tản văn đang là thể loại thời thượng vì tính chất cập...