Hiển thị các bài đăng có nhãn SƯU TẦM. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn SƯU TẦM. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 22 tháng 4, 2024

PHAM DUY hầu kí

 ĐỌC HỒI KÝ PHẠM DUY (1) 

Bất ngờ tôi đọc Hồi ký nhạc sĩ Phạm Duy. Ít ai dám viết thật như ông. Sau đây là vài ghi chép tôi rút ra từ bộ hồi ký khá đồ sộ đó.  

Phạm Duy cho rằng tình dục là chất liệu vô cùng quan trong trong sáng tạo. Ông không thể viết hay và viết nhiều bài hát như thế nếu không yêu, không tình dục. Nói chung, không thể viết được gì nếu không có cái đẹp và người phụ nữ... 


***

1.Phạm Duy thừa nhận mình có khả năng sinh lý cao. Dậy thì rất sớm, hoàn toàn tự nhiên. Khả năng đó bắt đầu từ vô thức bỗng trỗi dậy lúc ông lên tám tuổi. Trong một lần ngủ với mẹ và người bạn gái của bà nửa đêm người bạn mẹ ông phát hiện ông đang sờ tí bà. Thế là ông bị ăn một cái tát trời giáng đến sau này không quên. 


2.Ồng bị "mất tân" khi ngủ với cô bán hàng khuya, nửa đêm tới phố nhà ông đứng rao bán bánh. Lúc đầu ông ra mua nhưng sau đó thì tìm cách làm quen vì ông bị cám dỗ bởi các dấu hiệu phồn thực ngực to, mông nở. Cuối cùng tiếng rao đó là ám hiệu về khuya "hò hẹn" của hai người.  Ông trốn mẹ, lẻn ra dắt người thiếu phụ đó vào cửa sau và cả hai vồ cho đến sáng. Lúc này ông đã nhớn, mặt mun và nhổ giò. Ông không còn ngủ với mẹ và thường ở căn nhà phía sau nên khá tự do. 


3.Phạm Duy tự hào về sức khỏe ít ai bì của mình do nhiều nguyên nhân. Trong đó có một lý do là ông bị ông anh mình là Phạm Duy Khiêm, một trong những  người đỗ Tiến sĩ đầu tiên ở Pháp về lại Việt Nam làm việc lúc đó; buộc ông phải vào học trường dạy nghề cho thanh niên bấy giờ gọi nôm na là Cao đẳng "Nông lâm súc" của người Pháp mở và đào tạo nguồn nhân công cho chính sách thuộc địa. 

Phạm Duy viết, giữa ông và anh mình không hợp nhau và ông thường bị đánh. Ông Khiêm không thích cậu em mình chơi nhạc và thường nổi cơn thịnh nộ bất thường. Đây còn là dấu hiệu một căn bệnh về tâm lý mà mãi cho đến sau này khi ông Phạm Duy Khiêm tự tự chết khi đang là đại sứ Lãnh sự quán VNCH tại Pháp nhạc sĩ mới phát hiện ra nên ông rất thương anh mình. Nhưng đó là thời điểm khác.

    

Một lần ông anh đi dạy về thấy ông em đang hát nghêu ngao thế là nổi cơn lôi đình đè ra đánh cho một trận. Lúc đó có mẹ ông ở đó bà rất buồn nhưng không thể làm gì được.  

Để ngăn cậu em "vô công rồi nghề", lêu lổng, có nguy cơ "xướng ca vô loài", ông Khiêm đã gọi cho một người bạn cùng học ở Paris về đang ở trong ban điều hành trường Nông Lâm Súc để tống cậu em vào đó. Hòng để cậu em nhận ra chân giá trị lao động là gì? 


Nhưng Phạm Duy thích ứng rất nhanh. Trong hồi ký ông kể rằng mình thích nghi với lao động cơ khí, rèn đục, chế tác máy móc...  cộng với chế độ "kỷ luật thép" của người Pháp trong việc vận động, tập thể dục, ăn uống nên ông "phát triển tối đa", vạm vỡ, sức khỏe tốt chứ không yếu ớt thường thấy khi người ta vẫn hay nói đến nhạc sĩ, nghệ sĩ. 


4.Một trong những chuyện thú vị ông kể giữa các cậu trai choai choai ngứa nghề sớm là "so cu" với nhau xem ai "ngầu" hơn. Ông tự cho mình không kém cạnh gì ai, đã khỏe như thế nhưng trong chúng bạn vẫn có đứa khỏe hơn ông. Anh này đã dùng cu "như cái chày vồ" của mình để đập (giã) vỡ cả quả bàng khiến bạn bè đứa nào cũng tròn xoe mắt kinh ngạc... 


NGUYỄN HỮU HỒNG MINH

(Còn nữa) 

https://www.facebook.com/share/p/vv7sr7fiFDxrttJm/?mibextid=qi2Omg

Góc khuất trong thời Nhân văn giai phẩm (LÂM BÍCH THỦY)

Góc khuất trong thời Nhân văn giai phẩm

LÂM BÍCH THỦY, con gái thi sĩ Yến Lan Lâm Thanh Lang

 

Từ nhiều ngày qua, trên mang tin ông này bị tù, ông kia bị bắt v.v…, khiến tôi nhớ và xót xa cho văn nghệ sĩ thời cha tôi. Thời mà người nào càng tài giỏi càng bị vùi dập, oan trái, như nhạc sĩ Văn Cao, Cụ Phan Khôi, nhà thơ Quang Dũng v.v… Tôi thương họ vì đã sinh bất phùng thời, họ đa tài nên bị gọi là bọn phản động, là “Nhân văn giai phẩm”:

Hôm nay là ngày sinh của cha. Tôi nhớ Ông thì những hình ảnh thời của ông lại hiện về nguyên vẹn:
Vấn đề “Nhân văn giai phẩm” giờ đây người ta có nhắc đến thì cũng chỉ như nói về sự ấu trĩ của một thời. Bây giờ hồ dễ quay trở lại; vì được nhìn nhận với lý lẽ: “…trước đây, do thiếu kinh nghiệm và năng lực, vô tình người lãnh đạo đã kìm hãm và tước đi chân giá trị đích thực của nghệ thuật, tư tưởng và sáng tạo trong giới văn hóa văn nghệ, đã khiến không ít nghệ sĩ bị oan trái…”.
Dạo qua trang web của nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo, đọc Lại Nguyên Ân tôi mới vỡ ra và biết thêm nhiều điều. Một trong những điều đó là cái vô lý của thời Nhân văn giai phẩm:
Anh Tạo kể – “Người thợ may đồ cho cụ Phan Khôi, cụ được chọn cùng với nhà thơ Tế Hanh sang Trung Quốc dự lễ kỹ niệm 100 ngày sinh của nhà văn Lỗ Tấn thì bị đi tù.”
Ôi! cái thời gì mà nghiệt ngã và vô lý đến thế? Không biết đó là chuyện có thật hay chỉ là tin đồn nhảm?! Mà chú Tế Hanh kể lại là cụ được chính phủ cử đi cùng thì làm sao mà là tin đồn nhảm được nhỉ?! Vì chú là người trong cuộc mà!…
Điều này làm tôi nhớ lại và hú hồn cho ba tôi, trong cái rủi cũng có cái may! May ở đây, là ông thợ may- vì may đồ cho người mà họ cho là “cầm đầu “bọn nhân văn giai phẩm” thì bị đi tù gần mười năm mới được thả, thì việc – một mình cha tôi dám vượt qua hàng trăm văn nghệ sĩ trên đất Bắc ngay thời khốc liệt nhất, để đưa linh cữu cụ Phan Khôi –người cầm đầu bọn phản động đến nơi an nghĩ cuối cùng vào cuối tháng 11 năm 1959, mà chỉ bị phiền hà ít nhiều trong cuộc sống, thì quả là đại hạnh cho cha tôi quá chừng!!!
Có lẽ điều này như nhà báo PK – thư ký Báo VNCA, khi an ủi tôi bằng sự so sánh, rằng “nói về sự thiệt thòi của ba chị thời NVGP thì ba chị chỉ là con tép”
– Được an ủi như vậy và khi xem các bài viết của ông Lại Nguyên Ân về cụ Phan Khôi, ông Nguyễn Hữu Đang, chú Văn Cao thì tôi thấy nhà báo PK nói không sai chút nào. Lúc bấy giờ, tôi chẳng hiểu vì sao mà cụ Phan Khôi từ một người được nể phục, bỗng chốc bị mọi người xa lánh và ghẻ lạnh…
Và, khi ba tôi xuất bản tập thơ “Những ngọn đèn” được chú Văn Cao viết lời tựa:
“Qua mấy bài mới đăng gần đây của Yến Lan có nhà văn kêu lên: “Đến cái người hiền lành như anh Yến Lan mà cũng làm thơ leo thang à?” Người ta không những ngạc nhiên về hình thức mà còn ngạc nhiên về sự thay đổi của Yến Lan trong nội dung. Trong sự chuyển biến chung của thơ ca hiện nay mong nhiều người góp sức vào để đẩy lùi một quá khứ nhạt nhẽo,…
Sự chuyển hướng thơ ca không phải là công việc xếp đặt hình thức theo bậc thang hay theo một hình kỷ hà mà là sự chuyển hướng về cách nghĩ, cách nhìn, cách gọi của nhà thơ. Đọc thơ của Yến Lan, tôi có cảm tưởng là lúc nào anh cũng bắt đầu. Một sự bắt đầu vào các luồng thơ khác nhau gần như không do dự. Chúng ta thường vui sướng đợi một sự đổi thay của nhau. Nhưng tôi rất lo cái thế lực của con người cũ trong chúng ta, với những ràng buộc tình cảm hèn yếu cứ có dịp là kéo chúng ta nghỉ lại cùng đánh võng với nó ở một độ đường có nhiều vấn đề khó khăn nhất.
Thưở ấy, nhà thơ Xuân Diệu đã phê phán: “Chữa giả tạo bằng cách quá đề cao cá tính siêu nhân của người Văn nghệ; bằng cách đem “tiếng sáo tiền kiếp” ra thổi giữa những bản đàn của thời đại mà mình cho là chán. Bằng cách phục hồi nguyên xi những ý tình cũ kỹ đã bị cách mạng thải ra. Chữa giả tạo trên hình thức bằng cách làm thơ leo thang hay xuống dốc, cắt nát câu thơ ra và xuống dòng nhiều quá sự cần thiết”
Chú Văn Cao không những bị phê phán trên văn đàn, còn khốn đốn trong hội họa; vì cái bao thuốc lá Tam Thanh. Người ta xì xào bàn tán:- Người Họa sĩ vẽ bao thuốc này ý muốn bi thảm hóa người vợ có chồng đang chiến đấu ngoài mặt trận. Giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ-Ngụy đang ở giai đoạn quyết liệt nhất mà đem hình ảnh nàng Tô Thị trưng lên bao thuốc như thế, khác nào gợi cho người lính thấy sự tang tóc, đau thương, tuyệt vọng ở hậu phương; khác nào đánh vào tư tưởng chán nản, nhụt ý chí chiến đấu của người lính ngoài chiến trường…
Chính lúc đó, chúng tôi, học sinh nghe nói thế cũng cố căng mắt ra nhìn, để ép sao những suy luận trên là đúng:
- “rõ ràng Nàng Tô Thị Vọng Phu xõa tóc vật vờ như hồn ma-một hình ảnh tang tóc thê lương chứ có phải hình ảnh người phụ nữ bền bỉ chờ chồng đến hóa đá đâu! Và có cơ sở đấy chứ! Thật là phản động!”
Khi ấy tôi chưa ý thức để nhận biết việc này. Giờ nhắc lại cảm thấy tiêng tiếc cho hai phận đời lận đận, đơn độc trong cõi con người thời ấy; ba tôi và chú Văn Cao! Chú Văn Cao đã sống trong lo sợ, lúc nào cũng phải ý tứ, sợ tù tội đến còm nhom.
Mặt trận Văn hóa văn nghệ bấy giờ như những cơn sóng thần xô tới, dội vào trường, vào các cơ quan. Chỗ nào cũng có thể nghe xì xào, xỉa xói những người bị buộc tội phản động. Học sinh trường tôi, tuổi từ 11 đến 15, cũng tụm năm, tụm ba tranh cãi sôi nổi với những cái tên: Phan Khôi, Thụy An , Trần Dần, Lê Đạt, Văn Cao, …Ngược lại, thần tượng của học sinh, sinh viên là các nhà thơ Xuân Diệu, Tế Hanh, Chế Lan Viên. Đặt biệt là nhà thơ Tố Hữu.
Tuy chưa được gặp, nhưng chúng tôi luôn khắc ghi tâm Tố Hữu là nhà thơ thần tượng để chúng tôi ca ngợi, học tập, vươn tới. Thơ của chú, chúng tôi học thuộc lòng, gối đầu giường tựa như quyển sách “Thép đã tôi thế đấy” mà thanh niên thời ấy đã gối đầu.
Một hôm, được tin chú Tố Hữu sẽ về thăm Trường Học sinh Miền Nam số 6. Tin ấy đối với chúng tôi như rồng gặp mây. Từ 8h sáng, tất cả học sinh đã ngồi ở sân trường chờ đợi. Mắt thì đau đáu hướng ra cổng, từng phút hồi hộp được gặp thần tượng kính yêu nhất đời mình. Rất lâu sau, có tiếng reo to từ ngoài cổng “Chú Tố Hữu đến rồi!”. có nhiều giọng hỏi vang lên “đâu, chú đâu?” Tôi thấy từ trong chiếc xe con màu đen đi đầu, ba người chui từ xe ra. Hàng trăm giọng lại nhao nhao “Đâu, chú Tố Hữu là chú nào?”. Người đàn ông đi giữa, trong bộ đại cán kiểu Tôn Trung Sơn, màu xanh nước biển, đưa tay vỗ mạnh vào ngực, vẻ hãnh diện: “Đây, chú Tố Hữu là chú này đây”. Chúng tôi yêu cái cử chỉ đó của chú nhà thơ Cách mạng nên khoái chí cười vang.
Thơ của chú, chúng tôi thuộc nhiều lắm: Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, Ta đi tới, Từ ấy, Việt Bắc… Nhà chú thì cao và rộng rãi, đầu nhà có cây táo nên chú đã viết: Tôi viết bài thơ chào xuân 1961/cành táo đầu hè rung rinh quả ngọt… ” Đó là năm mà Miền Bắc đỉnh cao muôn trượng…”
Bấy giờ, tôi mới chỉ là cô học trò còi cọc, tuổi 13, học lớp 5; không biết ba tôi có tên trong danh sách “NVGP”. Chỉ nghe bạn n nói trước lớp “Họ gọi Lê Đạt, Trần Dần… bằng thằng thì chúng mình cũng sẽ gọi ba con Thủy bằng thằng”. Câu nói ấy cứ lởn vởn trong đầu; tôi lo sợ, không ngủ được, người ốm tong teo, trông như bà Hạn hán trong loạt phim hoạt hình của Liên Xô. Tôi bỗng lo sẽ có sự ghẻ lạnh như các chú đã đối xử với cụ Phan Khôi tại số nhà 73 Phố Thuốc Bắc –Hà Nội!
Hè, về nhà, tôi méc má. Bà giải trình là: “Má nghe nói có Nhóm phản động đã chọn một bài thơ của ba đăng lên tạp chí Nhân văn nào đó…” Rồi, an ủi “con đừng sợ, chú Nguyễn Văn Bổng đã đến gặp ba, bảo rút bài thơ về. Tôi nhớ rõ, lúc đó, má tôi nói chắc như đinh đóng cột “ba đã rút bài thơ ấy về rồi” nên rất yên tâm. Tôi có hỏi “Đó là bài thơ nào?”- “Má không biết, bài đó có câu “rán giáo điều làm mỡ gì gì ấy”. Tôi lại dồn “Thế nhân văn giai phẩm là gì” má tôi chỉ ầm ừ chứ có biết giải thích thế nào khi bà cũng chẳng hiểu vì sao những người bà thấy hàng ngày trước đây, sống và làm việc như nhau, bỗng dưng người ta bảo kẻ này là phản động để xa lánh họ.. !
Đến khi cầm tập thơ “Những ngọn đèn” (xuất bản năm 1957) ba vừa đem xuống Hải phòng cho. Dù không mặn mà với thơ, nhưng tôi đã lướt đến bài cuối, cố xem có câu thơ như má nói. Tôi thật sự bàng hoàng, câu “Lấy cả giáo điều ráng mỡ cho guồng máy nổ” trong bài “Tĩnh vật” vẫn còn trong tập thơ chứ ba đã rút về đâu. Tôi sợ hãi, dấu nhẹm dưới gối, không dám khoe. Vậy là ba không chịu rút về, mặc dù chú Bổng đã cảnh báo. Tôi không hiểu gì hết! Tại sao ba bướng đến thế? chắc là rầy rà lớn đây!???
Nhạc sĩ Văn Cao viết:
“Sự khác nhau trong Yến Lan là những nét mặt người cũ và mới. Người cũ thì chìm đi và người mới thì sôi nổi. Anh đã có một thái độ mới đối với cuộc sống. Đã có một tình yêu thương sự vật và con người thì không thể không có thái độ sống. Thơ anh bắt đầu biết đề cao những hành động, tình cảm của con người anh yêu lên để đã phá những bọn phá hoại sự xây dựng của xã hội. Cái yêu cái ghét đã rõ ràng thì những bài thơ cũng bắt đầu đổi. Người ta gặp thấy những câu thơ thật đột ngột sau một thời gian dài của Yến Lan.
Bởi họ thiếu
con tim
khối óc
Luôn động đậy
nhưng chỉ là tĩnh vật
Không ngờ, điều mà tôi day dứt “sao ông già không rút bài thơ về; được giải đáp vào ngày giỗ thứ 12 của ông, khi đọc bài viết của nhà văn Mang Viên Long:
“Tôi còn nhớ một lần đến thăm nhà thơ, được ông tâm sự về “Chuyện NVGP” đã làm “truân chuyên- điêu đứng” suốt đời ông (và gia đình):
“Đêm ấy, nhà văn Nguyên Văn Bổng đến gõ cửa gọi – gặp ông, NVB đã kêu lên: - Sao cậu lại “đi theo” đám Nhân Văn Giai Phẫm phản động ấy?.
- Ông điềm tĩnh – cười: – Tôi đi theo bao giờ?
- Vậy tại sao cậu đưa bài cho chúng?
-Ông thành thật kể: “Họ đến hỏi xin bài, tôi hẹn sẽ đưa, vì tất cả đều là chỗ anh em thân tình cả mà?.
- Cậu yêu cầu họ rút tên ra khỏi tờ báo ngay đi nếu không muốn “rầy rà” về sau!.
Thì ra, trong số báo của NVGP vừa xuất bản, có giới thiệu tên ông ở trang bìa – trong số báo sẽ in tiếp theo. Sau đó, lại có thêm vài ba người bạn văn gặp – cũng “trách cứ” như NVB. Nhưng tôi đã hứa rồi – không làm chuyện “rút tên” kỳ quặc ấy được
Nhắc đến giai đoạn “đi thực tế sáng tác” ở vùng sâu vùng xa của anh chị em văn nghệ sĩ sau vụ NVGP-Yến Lan đã cười buồn: “Đó là giai đoạn mở đầu cho cuộc đời lận đận của mình! Chỉ có sự khác nhau của 2 từ ghi trong giấy giớí thiệu về thôn xã “thực tế” là “đồng chí/ ông” cũng đủ khổ rồi! Nhưng, đến ngày nhà văn Phan Khôi mất – Yến Lan đã lặng lẽ đi sau linh cữu để tiễn đưa Người đến nơi an nghỉ cuối cùng, bất chấp mọi cặp mắt dòm ngó phê phán! Ông cười nhẹ “Nghĩa tử là nghĩa tận” cháu à!.
Nhà nghiên cứu văn học Khổng Đức đã kể cho tôi nghe:
“Sau ngày Miền Nam giải phóng, gặp Chế Lan Viên (ở Sài Gòn) chú hỏi thăm ba cháu (lúc đó còn ở lại Hà Nội). Nhắc tới ba cháu, Chế Lan Viên lắc đầu, tặc lưỡi vẻ thông cảm: “Trong cái nghiệp cầm bút, Yến Lan ít gặp may. Hồi ấy, Xuân Diệu không thích Văn Cao. Khi Văn Cao bị Diệu phê phán, mà Văn Cao lại viết lời tựa tập thơ “Những ngọn đèn” ca ngợi Yến Lan quá, ít nhiều Yến Lan cũng bị vạ theo”. Qua đó, tôi càng cảm phục nhân cách thi sĩ trong ba tôi: Ba thật dũng cảm và thủy chung!
Cuối năm 1978, Hội nhà văn Việt Nam có một sự thay đổi quan trọng về tổ chức Đảng Đoàn. Nhà văn Nguyên Ngọc, tác giả của tiểu thuyết “Đất nước đứng lên” vừa từ chiến trường Liên Khu Năm ra, được bầu làm bí thư Đảng Đoàn của Hội Nhà Văn Việt Nam. Các thành viên khác trừ nhà thơ Chế Lan Viên và Nguyễn Đình Thi ra đều là những nhà văn trẻ từ chiến trường về. Sự thay đổi này đã ít nhiều làm nức lòng anh chị em giới văn nghệ.
Đại hội Đảng lần thứ VI kết thúc đem đến cho giới văn nghệ sĩ một niềm vui lớn “kiên quyết đổi mới, đổi mới cách suy nghĩ, đổi mới cơ chế tổ chức, đổi mới cách làm việc.” “Tuy chưa biết như thế nào nhưng vì hàng chục năm qua, giới văn nghệ sĩ chán lối sống và làm việc của Ban lãnh đạo cũ rồi. Vì thế ai ai cũng vui mừng chào đón tổ chức mới”
Một quyết định được hầu hết mọi người ủng hộ và tin tưởng sẽ làm được, mặc dù ai cũng biết việc này không dễ chút nào…
Ở lĩnh vực Văn học Nghệ thuật, việc đổi mới đầu tiên là bổ nhiệm ông Trần Độ làm Trưởng Ban Văn Hóa Văn Nghệ Trung Ương, Ông Nguyễn Văn Hạnh Phó Ban, nhà văn Nguyễn Khải Phó Tổng thư ký đặc trách việc chuẩn bị cho Đại hội nhà văn sắp tới.
Vấn đề này được Ban Văn hóa, Văn nghệ Trung Ương hết sức ủng hộ và tạo mọi điều kiện để cho tổ chức mới hoạt động thuận lợi. Song bước đầu, tuy gọi là đổi mới; “Nhưng, dẫu mới song người cầm bút chưa được thoát khỏi lối mòn đã có sẵn mà nhà thơ Tố Hữu, lúc bấy giờ là Ủy viên Bộ chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng, đã phát biểu tại buổi họp đầu tiên của Đảng Đoàn, như gáo nước lạnh dội vào đầu mọi người, làm cho các văn nghệ sĩ thấy mất hứng niềm vui vừa được nhen lên”
“À, lớn là thế nào hè! Thời đại là thế nào hè! Văn thì phải đi từng bước, phải có cây số một, cây số hai, rồi mới có cây số ba chứ! Thực tế của ta bây giờ là rất đẹp, có thể nói là tuyệt diệu. Tại sao các đồng chí ngại ghi chép hả, thậm chí sao chép cũng được chứ!” – Trích trong “Nhớ lai” tr 198 - Đào Xuân Qúy
Tôi cũng nhận ra ít hương thơm mật ngọt khi chú Văn Cao được lớp trẻ trọng vọng hâm mộ và đề cao trong thời kỳ đổi mới. Những gì xảy ra giữa chú Văn Cao và ba tôi, như được đan xen vào nhau; họa cùng chịu, vinh cùng hưởng, khiến các nhà báo trẻ rất đồng cảm và quan tâm…
Vâng, tất cả đó là khung cảnh của thời Nhân văn giai phẩm. Nó nhuộm đậm trong lòng tôi đến nay khó xóa mờ được./.

Thứ Hai, 8 tháng 10, 2012

miền... cực lạc

Người miền Trung

Nhìn sơ qua bản đồ Việt Nam, nếu mường tượng đây là một người phụ nữ, đầu đội nón lá, đôi lưng gầy đang khom khom cặm cụi làm việc thì đôi lưng gầy và cong oằn bắt đầu từ Thanh Hóa, kéo dài đến tận chấm Bình Định, Phú Yên lại là mảnh đất miền Trung thân yêu.

Mảnh đất Việt Nam hình chữ S, ở phía Bắc phình ra giống như chiếc nón. Từ chấm lưng Thanh Hóa đến tận mũi Cà Mau tạo thành một đường cong. Nhìn sơ qua bản đồ Việt Nam, nếu mường tượng đây là một người phụ nữ, đầu đội nón lá, đôi lưng gầy cong oằn đang khom khom cặm cụi làm việc thì đôi lưng gầy và cong oằn bắt đầu từ Thanh Hóa, kéo dài đến tận chấm Bình Định, Phú Yên lại là mảnh đất miền Trung thân yêu.
"Đôi lưng gầy yếu" ấy là điểm tựa của cả gia đình, là nơi gánh nặng nhiều đợt bão lũ thiên tai, là nơi nắng khô hạn mùa hè, là mưa to gió lớn bão lũ vào mùa đông. Sức nặng của thiên tai, hạn hán, lũ lụt, mùa màng thất bát, cái nóng lạnh, đói nghèo, cơ cực mà tấm lưng miền Trung hết năm này qua năm khác cong oằn để đỡ cho "người phụ nữ đội nón lá Việt Nam". Thương lắm đôi lưng trần miền Trung.
Miền Tây, dù cái nghèo vẫn còn, nhưng khí trời thuận lòng người, đói thì cũng có rau, cá, cây trái đầy vườn. Người miền Trung nếu không biết dành dụm, chắt chiu, gom góp thì chỉ cần một lần càn quét của bão, cả nhà hàng chục miệng ăn phải nhịn đói, chịu rét, chia sẻ nhau từng miếng cơm, manh áo nhỏ.
Khổ nỗi, người dân quê nghèo làm lụng, tiền gom góp được thường họ không có thói quen đi gửi ngân hàng, ngân hàng với người miền quê nó sang, xa và lạ lắm. Người dân quê dành dụm được chút ít của ăn của để, lại đem mua heo, mua gà vịt, trâu bò thả đầy trong vườn để nuôi, đó là tài sản quý giá nhất. Họ thường ngày nhìn heo, gà, trâu bò sinh sôi nảy nở, lớn lên, họ lại vui, lại mừng, lại lạc quan về một tương lai tươi sáng.
Bi kịch của họ nằm ở chỗ những tài sản gom góp được quy đổi thành trâu bò, heo, gà chỉ sau một đợt bão lũ kế tiếp lại chết sạch. Mỗi đợt bão lũ đi qua không thiếu hình ảnh nhiều gia đình mất trắng ruộng vườn, trâu bò, gà vịt. Nhà cửa tốc mái, xiêu vẹo, đổ nát đã đành, thứ tài sản vốn dĩ đem gửi “ngân hàng” lại tang thương cuốn trôi theo bão lũ. Đó là chưa kể sau mỗi đợt bão lũ, mất mát tài sản chỉ là một phần, mất mát về con người mới là điều đau thương.
Ai có dịp theo dõi những thước phim chiếu về cảnh bão lũ miền Trung, nước ngập tận nóc nhà, nhiều cụ già ngồi chèo queo nhìn ra biển nước, bất lực và tuyệt vọng. Có nhiều em bé cùng một gia đình mất cả cha lẫn mẹ, ngồi túm tụm trong một góc và khóc nức nở. Trong bụng họ nhiều ngày vẫn chưa có cái ăn, và trên người không lấy một chiếc áo khô ấm để giữ nhiệt cho cơ thể.
Nếu nói sự yên bình về thiên nhiên ở các vùng miền khác, khí trời thuận lòng người để làm ăn sinh sống, thì miền Trung dấu yêu vô tình đã gánh chịu hết những sự trừng phạt của thiên nhiên. Người anh em của chúng ta đấy! Nếu trong một gia đình có người thường xuyên gặp bất hạnh, thì vô tình họ đã gánh hộ nhiều tai ương cho mình, để mình gặp nhiều may mắn và phước đức. Chúng ta phải thương miền Trung, người anh em ruột thịt bất hạnh.
Người miền Trung hay nói về tương lai, bởi vượt ra khỏi cái cơ cực hiện tại, cái khát vọng từ tận đáy lòng của họ là một ngày mới bắt đầu với thời tiết ôn hòa, mùa màng thu hoạch thuận lợi, thoát khỏi cái đói cái nghèo. Người miền Trung hay dành dụm để cho con ăn học đến nơi đến chốn. Với họ, tấm bằng kỹ sư, bác sĩ sẽ giúp tránh bớt khỏi sự trừng phạt khắc nghiệt của thiên nhiên khi hàng ngày phải cầu trời cho mùa màng thuận lợi. Cái bằng nó ổn định, đáng tự hào cho cả gia đình khi con cái học hành thành đạt. Có khổ cỡ nào, khó cỡ nào, con phải được ăn học đầy đủ.
Bởi thế những đứa trẻ được sinh ra và lớn lên tại miền Trung, từ nhỏ đã được thấm nhuần tư tưởng phải dùng tri thức, phải nỗ lực trong học tập thì mai này mới thành tài, mới thoát khỏi cái nghèo, cái khổ. Vì vậy người miền Trung hiếu học, thèm học.
Không khó để về quê, tôi nghe hàng xóm láng giềng kể chuyện, nào là kể thằng Tí đầu xóm làm 2,3 chục triệu/ tháng, cái Hạnh vào công ty ngon, kiếm tiền nhiều, giàu có. Mặc dù khi vào Sài Gòn tôi gặp những người đó, họ cũng bươn chải và khổ cực mới trụ lại được Sài Gòn chứ chẳng phải 2,3 chục triệu hay giàu có như tôi nghe ở quê. Nhưng đó không phải là sự khoe khoang bỗ bã, tôi cho đó là một nét đẹp và thường cười thầm khi nghĩ về những điều ấy.

Khi bạn có con, cơ cực cho con ăn học thành tài thì việc bạn tự hào hay nói quá khi con cái đi làm đó là điều thường tình. Chính sự tự hào đó giúp họ vượt qua được bao nhiêu sự cơ cực, khổ nhọc, để đặt cược cả tương lai vào con cái. Hy vọng “sau này con nó sẽ làm rạng danh dòng họ”. Người miền Trung rất đáng yêu.

Miền Trung vốn dĩ là nơi hội tụ nhiều “đặc sản” văn hóa của người Việt Nam. Miền Bắc từ Nghệ An đổ ra tới Lào Cai, Móng Cái, hoặc miền Nam từ Nha Trang, Ninh Thuận đổ dài đến Cà Mau đều có giọng nói giao tiếp không khó để nghe lẫn nhau. Nhưng đặc biệt ở miền Trung, từ Phú Yên, Bình Định đổ ra tận Quảng Trị, mỗi tỉnh là một đặc sản giọng nói.

Người Bình Định và Quảng Ngãi không quen thì nói với nhau như 2 bên chửi lộn. Hoặc người Quảng Nam mà nói với người Quảng Trị thì nghe cũng “khó đỡ”. Người Quảng Ngãi có thể đổ lỗi cho người Bình Định nói “khó nghe quá”. Người Bình Định thì cười phá lên “cái thằng quỷ này nó nói cũng có ai nghe được chữ nào đâu mà nói mình khó nghe”.
Đặc sản giọng nói ở miền Trung ít vùng miền nào ở Việt Nam có được, mà nào chỉ có giọng nói, nếu nói về ẩm thực miền Trung thì lại là một thế giới khác. Ai đã ăn bánh nậm bánh lọc, bánh mèo, bún bò Huế, ai từng ăn mì Quảng, bún chả cá Quy Nhơn, nem Ninh Hòa, nem Chợ Huyện Bình Định, bánh ít, bánh hồng, bánh tráng nước dừa? Ai từng thưởng thức bánh canh cá dầm Nha Trang, cơm gà Hội An, bì Tré chua chua ngọt ngọt... Nói về ẩm thực thì đặc sản miền Trung là một kho báu nhiều sắc màu mà không phải ai cũng có dịp ghé qua và trải nghiệm.
Tôi kể về người miền Trung với niềm tự hào riêng là người miền Trung. Con gái miền Trung, phần nhiều đều mang đầy đủ nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam mà văn học miêu tả, chịu thương chịu khó, chung thủy hết mực. Con trai miền Trung thật thà, chất phác, luôn lạc quan về tương lai và nỗ lực, chịu khó ở hiện tại.
Người miền Trung tâm lý “xóm làng” vẫn còn nhiều. Khi vào Sài Gòn, chứng kiến một đám tang ở Sài Gòn mà tôi không biết “nên vui hay nên buồn”. Đám tang ở đây nhạc xập xình, thuê người nhảy múa hát hò suốt đêm, toàn bộ mọi thứ từ dàn nhạc đến người khóc thuê phải bỏ tiền ra để có được một đám tang chỉn chu và nhiều tiếng tăm.
Người miền Trung không phải vậy, đám tang của một người, hàng xóm kế bên là người tới phụ dọn dẹp, căng bạt, dựng trại. Mọi công việc đào huyệt, khiêng quan, liệm, huy động xe khách và xe quan đều do hàng xóm láng giềng và người thân phụ giúp không lấy tiền. Nếu có chăng người không thân thích như mấy anh tài xế xe quan, xe khách chở người đi đến nghĩa địa, hầu như họ không lấy tiền. Đó vốn dĩ được họ quan niệm cũng là tạo phúc đức cho bản thân mình, và giúp đỡ người trong lúc tang gia bối rối.
Người miền Trung quan tâm và đùm bọc lẫn nhau rất nhiều. Họ hiểu rằng, chỉ có sự yêu thương, quan tâm lẫn nhau thì mới có thể chống chọi lại những sự trừng phạt khắc nghiệt của thiên nhiên, của cuộc sống, của cái nghèo khổ, cơ cực mà hàng ngày họ vẫn phải gánh chịu.
Nói về chuyện lập gia đình, nhiều đứa bạn tôi còn “bị” gia đình khuyên ngăn không nên quen con gái miền Nam, nên lấy con gái miền Trung, tuy nghèo 1 chút, tuy không “thời trang phấn son” hay “da trắng như trứng gà bóc” - nhưng họ tin tưởng vào con gái miền Trung, con gái miền Trung chung thủy và chịu thương chịu khó, biết quan tâm đến gia đình và lo cho chồng con.
Có thể những điều trên không phải là đúng tất cả, con gái miền khác hay những nét đẹp miền khác vẫn là những niềm tự hào của riêng mỗi vùng miền. Nhưng thôi kệ, tôi là người miền Trung, hãy cứ tự hào, dù miền Trung còn nghèo, còn vất vả và cơ cực nhiều.
BÁ TÍN
(vnexpress.net)

Thứ Hai, 28 tháng 5, 2012

Phan Thị Vàng Anh
Phan Thi Vang Anh
Phan Thị Vàng Anh

Gửi VB (trích)



Tập làm thơ

Rướn lên nào, cầu kỳ vào nào, con lừa già chỉ biết gặm cỏ thực tế
Rồi phun ra cũng chỉ những dòng thực tế
Mắt chỉ thấy cây là cây, hoa là hoa,
Cái đầu đáng đập tung ra để moi thử nằm đâu cái hạt tí hon tưởng tượng
Mỗi sáng làm vài dòng, thử khác với mình, vung tay cao hơn đầu, bất cần trán
Vẫn không qua khỏi cái bề mặt lầm lỳ của cuộc sống
Một với một là hai.
Tôi bất tài, tôi bất tài, tôi bất tài
Tập làm thơ như tập múa, những ngón tay thô kiểu gì cũng không thành hình sen nở
Tôi phục kẻ thù tôi, nghĩ ra những câu co quắp, rợn người, thoát ra ngoài biên giới não
Cũng có lúc tôi lủi vào trong cái chăn lục bát đống rơm bà ngoại
Những sáu những tám cùng nhau dặt dìu ru ngủ tôi có tài
Tôi có tài, tôi có tài, tôi có tài
Chẳng bao giờ đến mức “tai một vần”

Đã cố cầu kỳ hết những dòng trên, giờ thì buồn ngủ
Nhai cái kẹo lạc dính hai hàm răng chẳng muốn mở miệng ngáp một lần.

2004



Để được đi xa thì…

Dậy sớm
từ lúc bốn giờ sáng
Làm gà trống trên cây giật mình vội gáy
Sương đầu ngọn lá hốt hoảng
rơi

Vào cái giờ bông hoa đơn giản nhất cũng còn hương
Đất cũng còn hương
Chưa hề nghĩ đến sâu khi vẹt ngang cành lá
Lòng rất thờ ơ với quả
Lờ mờ treo như không phải để ăn.

Dậy sớm
Từ lúc bốn giờ sáng
Nhạc mở thế nào cũng là to
Mới biết lũ chó không hề ngủ
Hớn hở đi theo chủ
thành đàn
Và hai con mèo
vắng mặt
không lý do.

7. 2001



Trong Cúc Phương

Đi cả ngày không giáp mặt một con thú
Chỉ những đàn bướm trắng đơn điệu
Bay nhanh nhanh như thôn nữ ngày đi chợ
bị trai trêu

Hoa lít nhít lẫn vào trong cỏ
Muốn ngửi
lại ngại mũi dính đất
Hơi rừng như mật
như kẹo the
như góc phố thuốc Bắc

Tất cả chim hót đều giấu mặt.

2001



Hành trình của cây

Nửa đêm
Cái mầm cây chồi lên từ đất
Lấm lét nhìn quanh rồi nở bung hai lá mầm rất mịn
Trong lành.

Sương, nắng, mưa, gió và tất cả những gì rơi xuống, những gì bao quanh nắn cho thân cây thẳng
Mỗi năm choàng thêm một vòng vân
Cái hành trình khó nhọc được thiên nhiên đánh dấu công bằng
Ghi nhận mơ ước của đời cây là tán.

Mơ ước của đời cây có là gỗ quan tài nổ bừng trong lửa?
Hay trăm năm ẩm áp gói hòm da thịt giữa đất đen?
Khi vươn lên chẳng cây nào nghĩ mình rồi thành giường tủ
Không một thân cây nào uốn mình cho giống hình khung cửa
Kéo rèm.

Mỗi bài thơ tôi tôi giết một ước mơ cây giết đến tận cùng
Thành bột giấy.

4. 2006



Ngày lạnh nhất Hà Nội

Phố nhoen nhoét và mưa van vát
Những chiếc taxi bỗng nhiên trở mặt gọi không dừng lại
Tất cả đàn ông trong hàng thịt chó đều mặc áo đen
Hai đốm lửa – hai cái áo len đỏ một góc phòng nhức mắt
Ngày lạnh nhất
Hôm nay đài báo ngày lạnh nhất.

*

Não đàn bà làm bằng gì mà chỉ nghĩ chuyện tình yêu?
Chụm đầu nghiêm trọng như âm mưu chỉ để bàn về một người đàn ông bé nhỏ?

*

Về thôi
Bóng đèn cuối cùng của chung cư đã cháy
Dò dẫm đi lên những cầu thang ướt như bùn chảy
Cái điện thoại cả tối không một tiếng reng
Trong tay làm một ngọn đèn
Loạng choạng

*

Sao phải chịu mùa đông lạnh nhất ở đây?
Mặc nhiều áo tới nỗi xa lạ với da thịt của chính mình
Phải về nhà thuê chỉ thấy đèn chưa bật
Phải viết nhật ký mỗi ngày chỉ cùng một thắc mắc
Chữ cong queo vì đeo găng?

Nhớ Sài Gòn quá, tựa lưng vào tường mà khóc
Âm thầm thôi, trong đêm chỉ đôi mắt mèo động đậy
Nhớ lúc phong phanh áo mỏng rất gần tim
Nhớ những con hẻm nhỏ ít tiếng nói nhớ những con người lầm lũi...

*

Bước tiếp thôi còn một tầng nữa thôi
Bỗng thấy mình còn sống còn đau còn hạnh phúc
Lại sợ rồi sẽ hết, những ngày này sẽ hết
Hai tiếng nữa thôi, ngày lạnh nhất sẽ qua
Buồn làm sao, chuyện gì rồi cũng thành ấm áp.

1. 2005

Thứ Tư, 26 tháng 10, 2011

Lạt... Đà

Đà Lạt giản dị và hoài niệm

"Phố núi cao phố núi đầy sương phố núi cây xanh trời thấp thật buồn cô khách lạ đi lên đi xuống..."

Chẳng hiểu sao cái câu hát kia với tôi - là để nói về Đà Lạt, chứ chẳng phải Pleiku như nó vốn là. Cũng chẳng trách, bởi những ngày tôi tới Đà Lạt, thành phố ngập sương và mưa nhẹ...Khó có thể diễn tả cảm giác của buổi trưa ấy, khi ngang qua đường đồi cheo leo, giữa con đường cúc qùy cuối mùa lác đác mà vàng ruộm.

Cuối chiều tới nơi, thấy mình lạc vào cõi khác, cũng rẻo đất Tây Nguyên mà sao dịu dàng. Sương mù bắt đầu dày lên. Đi bộ là giải pháp tốt nhất sau mấy tiếng ngồi xe, cũng là để hít hà mùi hương của thành phố hoa đang chìm dần vào hoàng hôn.

Quyến rũ giản đơn

Thành phố hoa không xa lạ với nhiều người. Song khi tới Đà Lạt, du khách thường tranh thủ ghé thăm nhữgn thắng cảnh đẹp và nổi tiếng mà ít ai để ý đến những nét quyến rũ của những con phố vẫn dạo qua hàng ngày. Ở thành phố này, chỉ ngồi yên một chỗ cũng đã thấy sung sướng rồi. Cái khung cảnh hữu tình lãng mạn ấy, cái không khí dịu dàng đẫm sương lúc nào cũng như ve vuốt an ủi tâm hồn.

Tới Đà Lạt, người ta chỉ muốn lăn ra trên những thảm cỏ xanh, chẳng buồn nghĩ ngợi nữa, thả mình trôi đi trong thư thái

Tới Đà Lạt, người ta chỉ muốn lăn ra trên những thảm cỏ xanh, chẳng buồn nghĩ ngợi nữa, thả mình trôi đi trong thư thái. Ấn tượng đầu tiên đương nhiên là hoa ở khắp nơi, trên triền đồi, trên đường đi, trong những khu vườn hay trong quán cà phê. Điều đó qúa quen thuộc đối với du khách đến Đà Lạt. Còn với tôi, Đà Lạt lắng đọng lại là hình ảnh những con dốc sương mù. Những con phố mờ ảo trong sương, những dáng người lẩn khuất phía trước, đường dốc thoai thoải vừa đủ tạo cảm giác chênh chao mà không qúa mệt.

Tiếp đến là ấn tượng về cà phê, cà phê và cà phê. Quán cà phê nào ở thành phố này cũng dễ thương và đặc biệt nhiều hoa. Nhưng thích nhất là ngồi ở Tùng sáng sớm, ngắm người dân bắt đầu vào chợ hoặc lúc chiều khi chợ đồ cũ vừa dọn ra. Đà Lạt có chợ đồ cũ đáng yêu với những lối đi bé xíu xíu, những lời rao đi từ xa đã nghe thấy, đô thị đa dạng, không mua ngắm chơi thôi cũng đủ thích.

Những người me xe cố thì có thể ghé qua Mei Xuân Hương vì ở đây thường có cả dãy xe vespa cổ đứng thẳng hàng nhìn thinh thích mắt. Thích nghe nhạc có thể đi xa hơn một chút, leo lên Audiophile - quán nằm trong một ngôi biệt thự trắng cách thành phố 7 km - chỉ mở buổi chiều, chủ quán dễ thương, nhạc dễ thương, khung cảnh dịu êm và những ô cửa sổ đầy ánh sáng.

Từ cửa sổ Audiophile có thể thấy chùa Lâm Tiền Ni xa thăm thẳm trốn trong núi, chỉ khoe ra bức tượng Phật trắng toát cuồng si, trường Cô Vân lạnh lẽo phía lưng đồi, những ngôi nhà thấp mái lụp xụp của một Đà Lạt - không - khách - du - lịch.

Quán nhỏ nơi triền núi

Phần lớn cư dân Đà Lạt là người từ những vùng khác đến nên các món ăn ở đây khá đơn giản, không thiếu thứ gì nhưng cũng chẳng qúa cầu kì món gì. Nhưng tôi rất ấn tượng một quán ăn nằm nép mình trên đường đi xuống Suối Vàng. Khách tới, chủ mời rượu "chỉ tính tiền đồ ăn, rượu uống được càng nhiều càng tốt".

Hỏi ra mới biết, chủ quán mê nhậu nên đã bỏ việc mở quán, vợ là giáo viên cũng bỏ theo chồng. Hai vợ chồng vui thú điền viên lúc nào cũng tươi cười tất bật. Quán nằm chên vênh, phía dưới là hồ nước, phía trên là con đường dốc, đi đường khéo duyên thì gặp.

Bát súp ngon ngọt vừa giúp người ta bớt đói lòng sau chặng đường dài, vừa ấm áp trong không khí se lạnh ở đây

Thức ăn ở đây rất ngon, có cơm lam, gà nướng, thịt heo mọi nướng, giá cả lại rẻ, lại có rượu ngon miễn phí, khách cứ gọi là say ngất ngư chẳng muốn đi tiếp. Món đặc biệt ở quán này là súp atiso do người vợ khéo tay làm với những bí quyết riêng. Ban đầu chị nấu để dành riêng cho chồng ăn trước khi uống rượu để đỡ xót lòng, đến khi khách tới đông qúa mới đem ra bán. Bát súp ngon ngọt vừa giúp người ta bớt đói lòng sau chặng đường dài, vừa ấm áp trong không khí se lạnh ở đây.

Bởi vậy, khách đến quán uống rượu, ăn một lần súp atiso của chị thì khó mà quên được. Ăn uống no say, đến lúc nhấc người dậy tiếp tục chặng đường thì chú lại níu tay bảo cho thử hai loại rượu quý ngâm riêng cho chủ uống, bởi cái duyên gặp gỡ. Hai loại, một xanh ngắt ngằn ngặt, một vàng óng ánh, mỗi loại một chén thôi, cũng đủ để nhớ mãi. Hẹn ngày quay lại uống thêm và đánh cờ với chú.

Hoài niệm Hồ Xuân Hương

Du khách tới Đà Lạt bây giờ không khỏi hụt hẫng vì thiếu vắng Hồ Xuân Hương. Nơi mặt nước xanh ngắt rì rào giờ đây là cỏ mọc xanh um, xa xa là những đường nứt nẻ như cánh đồng mùa hạn. Ít người còn muốn thả bộ quanh hồ tìm kiếm vẻ mộng mơ của hàng phượng tím hay chiêm ngưỡng những thiếu nữ Đà Lạt e ấp ngồi đọc sách trên ghế đá công viên. Vẫn biết thay đổi là cần thiết, mà sao chứng kiến thành phố hoa chuyển mình người ta vẫn thấy nao nao lòng.


Vẫn yêu mến cái khí hậu cùng vẻ lãng mạn của Đà Lạt, du khách hướng ra ngoại ô nhiều hơn. Ngoài những địa điểm du lịch nổi tiếng như Trại Mát, Suống Vàng, Langbian...du khách giờ đây thích tìm đến những ngọn đồi trồng rau hoặc hoa ở vùng ven Đà Lạt. Không qúa xa trung tâm mà khung cảnh đã khác nhiều.

Chịu khó đi bộ, bạn sẽ khám phá ra một khung cảnh thần tiên. Những con đường hoa dẫn vào căn nhà gỗ như trong những câu chuyện cổ xưa bạn thường nghe kể. Đó là phần thưởng của một Đà Lạt còn nhiều bí ẩn dành cho những người đam mê khám phá.

Theo Lâm Du
MNVN

Chủ Nhật, 23 tháng 10, 2011

Thơ hài đang lên

Thơ Bảo Sinh

(trích đoạn)


Ra đường sợ nhất công nông
Về nhà sợ nhất vợ không mặc gì!

Vợ là cơm nguội nhà ta
Lại là phở tái của cha láng giềng

Ai cũng làm được nhà thơ
Ai cũng có thể “sù cơ” của mình

Muốn đuổi khách ra khỏi nhà
Đọc thơ được giải họ ra tức thì

Muốn cho trộm chẳng đến nhà
Đề vào trước cửa: Đây là nhà thơ

Đi đái thì đứng giữa đường
Hôn nhau lại đứng sau tường để che

Ghế thì ít, đít thì nhiều
Cho nên đấu đá là điều tất nhiên
Ba lạng ở chốn động tiên
Thừa chỗ đủ để cưỡi lên vạn người

Im lặng vợ bảo giận gì
Tươi cười vợ bảo chắc đi với bồ

Vợ là thánh chỉ vua ban
Có sao dùng vậy miễn bàn đúng sai

Mình ngu nhiều kẻ ngu hơn
Cho nên được gọi là khôn hơn người
Em xinh đâu bởi nụ cười
Em xinh là bởi nhiều người xấu hơn

Muốn so thơ dở thơ hay
So bồ của họ biết ngay thôi mà


(nguyên đoạn)


Vuông tròn
Ngày xưa trái đất hình vuông
Cho nên đi đứng trên đường thẳng hơn
Bây giờ trái đất hình tròn
Cho nên bao kẻ lom khom định bò.

Mê ngộ
Khi mê bùn chỉ là bùn
Ngộ ra mới biết trong bùn có sen
Khi mê tiền chỉ là tiền
Ngộ ra mới biết trong tiền có tâm
Khi mê dâm chỉ là dâm
Ngộ ra mới biết trong dâm có tình
Khi mê tình chỉ là tình
Ngộ ra mới biết trong tình có dâm!

Khi yêu cái xích dưới chân
Thì xiềng xích ấy là thần Tự do!

Tu
Tự trói thì gọi là tu
Bị trói thì gọi là tù mọt gông!


Mê là mê theo cách mê của người
Ngộ là mê theo cách mê của mình.

Tự do
Tự do sướng nhất trên đời
Tự lừa lại sướng hơn mười tự do!

Tại sao?
Trẻ thơ mở trí nhìn đời
Cho nên luôn hỏi những lời: Tại sao?
Người lớn nhắm mắt ra vào,
Nhờ người dắt hộ, “Tại sao” không cần!

Bịt tai
Muốn bịt hết miệng trần ai
Hãy bịt ngay chính lỗ tai của mình.

Yêu
Yêu là nhớ ít tưởng nhiều
Yêu là chẳng biết mình yêu cái gì
Yêu nhau đâu bởi hàng mi
Đắm say đâu phải chỉ vì đôi môi
Yêu là yêu, có thế thôi…

Nợ
Nợ tiền trả hết là xong,
Nợ tình càng trả càng phong lưu tình.

Đời người
Đời người như tốt qua sông
Tiến ngang, tiến dọc chứ không được lùi.

Sang, về?
Cùng chung một chuyến đò ngang
Kẻ thì sang bến, người đang trở về
Lái đò lái mãi thành mê
Sang về chẳng biết mình về hay sang

Tu
Trốn chợ lên đỉnh núi tu,
Họ bê cả núi hoang vu về phường.
Tiếng chuông vào phố lạc đường,
Sư già khất thực, luôn mồm “Thanh-kiu”

Thứ Ba, 20 tháng 9, 2011

đứng...?

chỗ đứng của người cầm bút hôm nay


Phan Hồng Giang

Những cuốn sách hay trước đây đã từng đọc, với tôi lúc nào cũng như những người bạn cũ lâu ngày không được gặp. Phải chăng là một người bạn cũ, đã cùng trải qua thử thách của tháng năm, có khi đáng quý bằng hai, ba người bạn mới ? Một cuốn sách hay gáy đã xác xơ cầm lại trên tay nhiều khi khiến lòng ta bồi hồi xao xuyến…

Truyện Sêkhốp là một cuốn sách như thế; tôi vẫn thỉnh thoảng tìm đọc lại những trang văn của nhà văn Nga này để rồi thêm một lần khâm phục văn tài , nhân cách của ông…

Không thể nói về nhiều tác phẩm của ông. Chỉ xin dừng lại ở một truyện ngắn nổi tiếng: truyện “Khóm phúc bồn tử” ra đời từ cuối thế kỷ 19.

Truyện là lời kể của bác sĩ thú y Ivan Ivanứt, một người bạn của tác giả. Ivan có người anh là Nhicôlai, một viên chức xoàng ở Sở thuế vụ. Suốt đời, Nhicôlai chỉ mơ ước tậu được một trang trại riêng, ở đấy thế nào cũng phải trồng một khóm phúc bồn tử. Nhicôlai nhịn ăn, nhịn mặc, dành dụm từng xu, từng đồng lương trong hàng chục năm liền và cuối cùng đã toại nguyện. An nhàn nhấm nháp cái thú làm chủ một trang trại, anh ta phát phì ra, các đường nét trên mặt đều chảy xệ xuống: Trong trang trại của anh ta, người đầu bếp cũng chậm chạp, nặng nề, cả con chó giữ nhà cũng béo tròn như con lợn.

Ivan đến thăm anh và được mời ăn những trái phúc bồn tử vừa hái trong vườn nhà. Nhicôlai nhai vội vàng, ngấu nghiến, miệng xuýt xoa: – Chà, ngon tuyệt, ngon tuyệt! Em thử nếm mà xem!

Sêkhốp chỉ dựng lên như thế đoạn đời một con người. Thoạt tiên có thể nghĩ rằng: mơ có một trang trại riêng (tất nhiên không phải bằng nguồn tiền tham nhũng!), thèm được ăn trái cây hái từ vườn nhà – chuyện này thường quá, ước mơ này có vẻ hiền lành, vô hại quá, có gì đáng để ý đâu! Nhưng dưới cái nhìn tinh tường, nghiêm khắc theo chuẩn mực đạo đức rất cao của nhà văn Sêkhốp, thì cái vẻ thỏa mãn tột độ, niềm sung sướng gần như phải reo lên, nhẩy lên của tay điền chủ nghiến ngấu nhai những trái phúc bồn tử của cả một đời người kia đã tố cáo không chỉ sự nghèo nàn thảm hại trong lẽ sống của y, mà ở một lớp tầng sâu hơn – còn là sự tòng phạm với những điều ác tày đình đang diễn ra trên khắp nước Nga Sa hoàng thời ấy.

Chúng ta như được đọc những dòng suy nghĩ tiếp của Sêkhốp qua lời tự bạch của bác sĩ Ivan.

“Không hiểu vì đâu, những ý nghĩ của tôi về hạnh phúc con người bao giờ cũng pha lẫn buồn rầu, và đến lúc này, khi trông thấy một con người thỏa mãn, hạnh phúc, một cảm giác nặng nề gần như tuyệt vọng choán cả lòng tôi. Tôi hình dung quả thật đã có quá nhiều những người thỏa mãn hạnh phúc! Đó là cả một sức đè nặng ghê gớm! Anh hãy thử nhìn lên cuộc đời này: sự đê tiện và nhàn hạ của những kẻ có quyền thế; sự dốt nát và bị dày vò như súc vật của những kẻ yếu, đâu đâu cũng thấy cảnh nghèo khổ đến cùng cực, chật chội, tha hóa, rượu chè, nghiện ngập, đạo đức giả, dối trá. Thế mà trong khắp mọi nhà và trên đường phố, đều thấy lặng lẽ, bình yên: trong số 50 nghìn người sống ở thành phố này, không một ai thét to lên, bày tỏ sự phẫn nộ !Tất cả đều bình yên, lặng lẽ, chỉ có con số thống kê câm là biết phản đối : bao nhiêu người phát điên, bao nhiêu thùng rượu đã uống cạn, bao nhiêu đứa trẻ đã bị chết yểu. Một thứ trật tự như vậy chắc là cần phải có, chắc là người tốt số cảm thấy hạnh phúc chỉ vì những kẻ bất hạnh âm thầm chịu đựng.”

“Sáng sớm hôm ấy, tôi rời nhà người anh, và từ đó tôi không thể nào sống nổi ở thành phố này được nữa. Sự yên lặng, bình thản chung quanh đè nặng lòng tôi, tôi sợ nhìn những khung cửa sổ; đối với tôi giờ đây không có cảnh tượng nào nặng nề hơn cảnh một gia đình hạnh phúc quây quần bên bàn và uống nước chè”.

Sêkhốp cùng nhân vật của ông đã nghiêm khắc quá chăng? Cái nhìn cuộc đời của ông có cực đoan quá không? Suy cho cùng thì “ngồi quây quần uống nước chè” bên khung cửa sổ sáng ánh đèn đâu phải là phạm tội !? Thế rồi Sêkhốp vẫn bày tỏ sự bất bình. Với ông, “pháp luật chỉ là cái đạo đức tối thiểu“, cái chuẩn đạo đức nhiều lần cao hơn mà lương tâm nhà văn đòi hỏi phải là sự đồng cảm sâu xa với nỗi đau của đồng loại, là phá bỏ sự vô cảm, phá bỏ cái im lặng – “đồng lõa với cái ác” đang ngự trị trong xã hội Sa hoàng.

Chỉ qua thiên truyện ngắn này ta đã thấy hiển hiện nhân cách lớn lao của nhà văn Sêkhốp, lời nhắn gửi khẩn thiết của ông về chỗ đứng của người cầm bút giữa cuộc đời.

*

Xã hội ta hôm nay tất nhiên khác xa thời Sêkhốp sống. Nhưng không thể nói chung quanh chúng ta không còn những điều gây bức xúc, đau lòng. Không xa những sân golf sang trọng, thảm cỏ xanh mỡ màng, là những dãy nhà ổ chuột xác xơ trên kênh rạch đen ngòm, hôi thối. Người nông dân mất đất, tiêu hết tiền đền bù, tuyệt vọng không biết sẽ tiếp tục kiếm kế sinh nhai bằng cách gì đây. Kẻ lo sắm xế hộp bạc tỷ, người lo chạy ăn từng bữa cơm độn khoai. Chó becgiê ca một “đại gia” đã cắn xé đến chết một phụ nữ nghèo đi mót cà phê trước sự vô cảm của nhiều người có trách nhiệm. Các cháu nữ sinh vị thành niên trở thành nạn nhân mua vui cho các bậc mày râu tai to mặt lớn và rồi lại phải chu án tù. Những ngư dân bám biển mưu sinh bị đánh đập, cướp bóc, xua đuổi ngay trên vùng lãnh hải của nước mình. Biển khơi, đảo xa cùng những cánh rừng biên ải đã và đang bị người “nước lạ” chiếm đoạt, dòm ngó… Những đứa trẻ đến trường, đánh cược với mạng sống, đu dây qua dòng sông chảy xiết, trong khi nhiều dự án viển vông ngốn cả núi tiền vẫn đang được hăm hở vẽ ra. Bệnh viện la liệt bệnh nhân, 2-3-4 người xếp chung một giừơng; và không ít người trong số họ sẽ bị trả về nhà chờ chết chỉ vì ví đã lép kẹp, không còn tiền chữa trị. Trường ốc thiếu hụt, phụ huynh phải thức trắng đêm, chen chúc xếp hàng cố giành giật cho con mình một xuất học mầm non! Và thế rồi trống vẫn dong, cờ vẫn mở, lễ hội vẫn tưng bừng, đua nhau nói những lời có cánh, tán tụng nhau, trao huân chương cho nhau!…Và thế rồi những ngôi biệt thự hoành tráng, to vật vã với nguồn gốc mờ ám vẫn tiếp tục mọc lên như thách thức sự nhẫn nhịn của người dân. Nơi này nơi khác, người dân vẫn còn chưa “dám mở miệng ra” mà nói lên những bức xúc oan ức của mình…

Nhà văn, anh ở đâu trong trận chiến không tiếng súng mà đầy cam go đang diễn ra hàng ngày nhằm xóa bỏ những điều ngang trái để đạt đến mục tiêu cao đẹp còn rất xa vời : vì “dân giàu, nước mạnh; xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” ?

Vẫn biết người cầm bút bộc lộ thái độ sống của mình thông qua tác phẩm thơ, truyện, tiểu thuyết đầy ắp những tình cảm, sự am tường và những suy nghĩ trước hiện thực cuộc đời bằng nghệ thuật ngôn từ điêu luyện. Người đọc vẫn chờ đợi, lắng nghe tiếng nói trực tiếp của nhà văn, – những tâm hồn nhạy cảm, những trí tuệ sắc sảo, đầy bản lĩnh.

Tuy vốn không thích nói những lời có vẻ to tát, tôi vẫn muốn bày tỏ lòng mong mỏi những người cầm bút chúng ta trước khitrong khi cầm bút, hãy tuyên chiến với căn bệnh trầm kha vô cảm đang lây lan trong khắp xã hội ta hôm nay, hãy chia sẻ tình thương với từng số phận con người, hãy là một công dân biết canh cánh lo toan cùng dân tộc trước vận mệnh của đất nước này, hôm nay và mai sau!

Theo viet-studies

Thứ Năm, 8 tháng 9, 2011

Nẫu ăn

“Tam bảo” ẩm thực Phú Yên

Do đặc điểm là một tỉnh duyên hải nên trong thực đơn hằng ngày của người Phú Yên, thủy sản luôn chiếm vị trí quan trọng. Và cũng từ truyền thống ấy, người Phú Yên đã nâng tầm ẩm thực biển của mình lên thành đặc sản. Mà trong đó, có 3 thứ được mệnh danh là “tam bảo” ẩm thực đất Phú.

Cá ngừ đại dương

Cách đây 20 năm, nghề câu cá ngừ đại dương ở Việt Nam bắt đầu tại Phú Yên và bây giờ đã lan ra nhiều tỉnh. Phú Yên hằng năm đánh bắt được khoảng 1.800- 2000 tấn cá ngừ đại dương, chủ yếu xuất khẩu. Ăn cá ngừ đại dương cũng đã có ở nhiều tỉnh, thành phố, nhưng các quán và cách ăn ở đất Tuy Hòa, Phú Yên vẫn được dân khảnh ăn đánh giá là sành điệu nhất.

Món độc đáo nhất chế biến từ cá ngừ đại dương ở Tuy Hòa, Phú Yên, là mắt cá ngừ chưng cách thủy. Mắt cá mua về được rửa sạch, ướp các loại gia vị như hành, tiêu, ớt, tỏi, muối, bột ngọt... để cho thấm đều khoảng 15 - 20 phút thì cho vào nồi đất chưng cách thủy độ nửa giờ thì ăn được. Khi chưng cho thêm mấy vị thuốc bắc để khử mùi tanh và tăng chất bổ dưỡng. Ăn món này thường kèm với các loại rau thơm và kèm một vài ly rượu mạnh thì càng hợp khẩu...

Ghẹ Sông Cầu

Món thứ hai là gỏi bao tử cá ngừ. Đây là món hiếm, ít được bày bán ở hàng quán, bởi ngư dân đánh bắt cá ngừ thường dùng món này trong lúc họ còn lênh đênh trên biển hoặc về “lưu hành nội bộ”. Chỉ cần rửa sạch bao tử rồi bỏ vào nước luộc chín, sau đó rửa lại nước lạnh cho giòn, xắt thành miếng vừa ăn ướp với hành tây, tiêu, ớt, muối đường, mì chính... trộn đều là có món gỏi bao tử cá ngừ.

Sò huyết Ô Loan

Đầm Ô Loan thuộc huyện Tuy An từ lâu nổi tiếng là thắng cảnh của miền Trung. Nơi đây cũng nổi danh với món sò huyết ngọt, béo làm say lòng bao du khách. Muốn thưởng thức món ngon này, du khách phải chịu khó lên thuyền theo các thợ lặn ra giữa đầm, lênh đênh trên sóng nước, vừa tham quan cảnh lặn bắt sò và thưởng thức ngay tại chỗ. Trong hành trang của du khách không thể thiếu gia vị, thức uống và bếp lò để nướng sò.

Thử tưởng tượng còn có thú nào bằng cảnh ngồi trên khoang thuyền, tự tay mình nướng lấy những chú sò mà mình thích nhất, rồi cho vào miệng. Cảm giác đầu tiên là vị ngọt thơm, béo béo và mịn màng ở đầu lưỡi, sau đó ngấm dần xuống tận cổ.

Ghẹ Sông Cầu

Ghẹ vùng Sông Cầu to bằng bàn tay, bụ bẫm, thân mình xanh thẫm, càng và yếm lốm đốm trắng, béo mầm. Người ta có thể luộc, rang muối hoặc nướng vỉ, làm món lai rai rất thú. Khách muốn có bữa cơm ghẹ thì có ngay tô canh ghẹ, đĩa ghẹ kho rim nóng hổi.

Ghẹ đưa ra bán ở các chợ hay cung cấp cho các quán ăn, nhà hàng đã đặt mua sẵn. Khách ngồi hóng gió mát, nhìn trời nước bao la chừng mười phút sẽ có món ghẹ rang muối hay ghẹ luộc dọn lên ngay. Còn khách muốn có bữa cơm ghẹ thì cũng sẵn sàng với những tô canh ghẹ, đĩa ghẹ kho rim nóng hổi còn bốc khói. Nếu cần nhâm nhi lai rai thì đã có những chú ghẹ to tướng, mầu đỏ gạch, nằm gọn gàng trên đĩa trông thật hấp dẫn. Dùng hai tay bẻ lấy đôi càng rồi nhẹ nhàng đập vỡ nó ra, chấm vào đĩa muối cho vào miệng. Cảm giác đầu tiên là vị ngọt ngọt, mùi thơm thơm, béo béo và mịn màng ở đầu lưỡi, sau đó ngấm dần xuống tận cổ. Dùng cái nĩa cạy hết lớp gạch chấm vào đĩa muối tiêu ăn trước, sau đó mới đến lớp thịt. Ăn ghẹ chớ ăn vội, cứ chậm rãi từng con một, hết con này đến con khác. Khi nào cảm thấy bụng đã no mới thôi!

Bài và ảnh: Vương Loan
(QĐND)

Chủ Nhật, 21 tháng 8, 2011

Đà Lạt & nghệ sĩ

Nữ nghệ sĩ độc lập và “Ngôi nhà kỳ dị”

Đã khá nhiều năm mới trở lại Đà Lạt, một trong những địa chỉ tôi chủ động tìm tới là “Ngôi nhà điên”. Chủ ngôi nhà, kiến trúc sư Đặng Việt Nga là một tấm gương làm nghệ thuật miệt mài, độc lập và sáng tạo.

Kiến trúc sư Đặng Việt Nga (bên phải)
Kiến trúc sư Đặng Việt Nga (bên phải).

Tự mình bước đi

Nhiều nhà nghiên cứu và du khách nước ngoài khi nói tới công trình “Ngôi nhà điên” tại Đà Lạt, thường gắn thêm cái mác “Chủ nhà là con gái một nhà lãnh đạo nổi tiếng của Việt Nam”. Rõ ràng sự tò mò càng được nhân lên gấp bội, với tiểu sử tác giả như vậy. Không phải nhà lãnh đạo nào trên thế giới cũng có con là nghệ sĩ đạt tầm vóc quốc tế. Đặng Việt Nga là con gái của cố Tổng Bí thư Trường Chinh. Nhưng sự thực, dường như tiểu sử không ảnh hưởng nhiều đến con đường nghệ thuật của một nghệ sĩ sáng tạo.

Ông Trường Chinh là người duy nhất hai lần giữ chức Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, được gọi là “Tổng bí thư của đổi mới”. Dưới con mắt của Đặng Việt Nga thì bố của cô là một người cha hiền hậu, rất chiều con cái. Chị nói: “Cha tôi không áp đặt chúng tôi phải học gì, làm gì. Tôi tự chọn con đường cho mình. Khi cha tôi biết tôi chọn nghề kiến trúc sư, lại theo thiên hướng nghệ thuật, cha tôi không phản đối mà ủng hộ với lý do ngành này thiết thực cho đất nước, cho nhân dân”.

“Ông chẳng để lại tài sản gì. Tài sản lớn nhất mà cha tôi để lại, đó là tinh thần say sưa làm việc”. Kiến trúc sư Đặng Việt Nga cho biết chị đã sống tự lập, một mình xông pha từ nhỏ. “Bé tí tôi đã xa nhà. Tôi học trường thiếu nhi Việt Nam tại Trung Quốc từ năm 1951-1954, sau đó sang Liên Xô học phổ thông. Tự tôi phải thu xếp cuộc sống, miệt mài học hỏi để không thua kém chúng bạn”.

Tri thức là ngọn đèn

Chị tốt nghiệp Đại học Kiến trúc Mátxcơva (1959-1965), sau đó từ 1969-1972 tiếp tục trở lại học và lấy bằng tiến sĩ của Liên Xô.

Trở về Hà Nội, chị công tác tại các Viện thiết kế Kiến trúc của Bộ Xây dựng và Bộ Văn hóa. Năm 1983, Đặng Việt Nga quyết định rời thủ đô Hà Nội, rời trung ương, vốn là mảnh đất mơ ước của các kiến trúc sư, rời những dự án khổng lồ, để chuyển vào Đà Lạt. Khác với ngày nay, Đà Lạt lúc đó kinh tế, du lịch, thậm chí văn hóa đều rất nghèo nàn, thiếu thốn. Thành phố cao nguyên đài các gần như bị quên lãng trong xã hội bao cấp nặng nề. Quyết định vào Đà Lạt của chị khiến nhiều người thấy khó hiểu. Chị sẽ làm gì ở xứ tỉnh lẻ đó?
Giải thích cho quyết định “lên núi” của mình, chị Đặng Việt Nga cho biết: “Tôi yêu Đà Lạt. Chính phong cảnh tuyệt đẹp, khí hậu trong lành, con người hiền hòa và sự yên tĩnh của Đà Lạt đã ảnh hưởng lớn tới quyết định của tôi: ở lại đây cho đến cuối đời”.

Không khí đổi mới đã thổi vào chị một luồng gió. Sáng tạo cá nhân cần được chú ý đúng mức. Người nghệ sĩ phải tư duy bằng cái đầu của chính mình. Chị tiết lộ: “Sau khi đã thiết kế nhiều công trình cho nhà nước, và cũng là do sự thích thú và đam mê trong sáng tạo nghệ thuật kiến trúc của bản thân, giờ đây tôi bắt đầu thể hiện những ước mơ của riêng mình” (Tự bạch của Đặng Việt Nga tại Biệt thự Hằng Nga).

Các công trình của Đặng Việt Nga sáng tạo mạnh mẽ, gây nhiều dư luận trái chiều. “Cha tôi có rất nhiều việc, tôi lại ở Đà Lạt xa xôi, nên cụ chẳng có nhiều thời gian để xem các công trình và góp ý cho tôi. Nhưng cha tôi nói luôn tin tưởng và ủng hộ công việc của tôi” – chị Đặng Việt Nga nhớ lại.

Năm 1988 bố chị đột ngột qua đời. Chị cho biết chị bị sốc trước sự ra đi của người cha, nhưng chị vẫn đứng vững “Tôi đã được rèn tính tự lập từ nhỏ. Tôi cũng tự tin với kiến thức của mình”. Chị cũng nhận ra mình cần sống một cuộc đời mới, đối diện với bản thân: “Tôi nghĩ đã đến lúc phải làm được những gì mình cần phải làm, những gì có ích cho xã hội”.

Sau một thời gian dài chuẩn bị, từ ý tưởng đến cơ sở vật chất ban đầu, Biệt thự Hằng Nga đã được thi công vào năm 1990. “Tôi không có tiền”, chị đã đánh cược cuộc đời vào dự án nghệ thuật của mình, “Tôi vay tiền bạn bè để làm, rồi vay tiền ngân hàng để trả cho bạn bè, vay tiền bạn bè trả ngân hàng, cứ thế mà làm. Lúc nào đầu óc cũng muốn quay cuồng vì nợ nần. Nhưng tôi tự nhủ, mình làm đúng, mình sẽ là người chiến thắng”.

Kiến trúc độc đáo của “Crazy house”
Kiến trúc độc đáo của “Crazy house”.

Ngôi nhà “điên” chênh vênh

“Tôi muốn thay đổi một cái nhìn về kiến trúc” – Kiến trúc sư Đặng Việt Nga nói – “Tôi muốn đưa ra một lối kiến trúc khác, phong phú hơn những tòa nhà thời bao cấp, nhưng cũng khoa học và hiệu quả”.

Ngay từ khi mới xây dựng, Biệt thự Hằng Nga đã gây xôn xao dư luận. Khu nhà không phải hình khối chữ nhật vươn cao mà là mang hình một cái cây cổ thụ khổng lồ, cong queo, cụt ngọn, đen đúa giữa bầu trời sương mù. Trong tòa nhà cây ấy có chứa nhiều phòng, mỗi phòng một hình thù, diện tích khác hẳn nhau.

Như cái tên ban đầu của nó là Biệt thự Hằng Nga, ngôi nhà dường như lấy cảm hứng từ sự tích cây đa trên cung trăng, rất lãng mạn, nên thơ. Nhưng, giữa một thành phố mà phần lớn nhà cửa biệt thự theo kiểu kiến trúc phong kiến nửa thuộc địa được xây dựng từ thời Pháp thuộc với tính chất nghỉ dưỡng thực dụng, Biệt thự Hằng Nga thiết kế độc đáo, phóng túng, bay bổng, phá cách, vẻ như không được lòng nhiều người.

Tên gọi của tòa nhà do vậy bắt đầu thay đổi. Người ta gọi nó là “Nhà cây”, “Ngôi nhà điên”. Thậm chí, do trong khuôn viên có phòng thờ tổ tiên và thờ cụ Trường Chinh nên có người nước ngoài nói quần thể kiến trúc của Đặng Việt Nga là khu lăng mộ!

Lần lên Đà Lạt này, tôi thấy tên chính thức được gắn biển công trình là “Crazy House”, Ngôi nhà điên, như người dân địa phương đã đặt cho nó. Phần nhiều sách báo cũng gọi công trình là “Ngôi nhà điên”. Tiếng Anh, trường hợp này, tính từ Crazy khó dịch là “điên”, bởi “điên” là tính từ thường dùng cho người, động vật hơn là những vật vô tri. Crazy, trong kiến trúc, còn có nghĩa là xộc xệch, không ngay thẳng. Có thể hiểu theo nghĩa “Crazy House” là ngôi nhà phá cách, ngôi nhà xộc xệch, kỳ dị.

Chính vì không “chính quy”, không “ngang hàng thẳng lối” mà ngôi nhà hứng chịu bão táp dư luận. Nhiều ý kiến cho rằng “những kiến trúc kỳ quái không phù hợp với phong cảnh vốn có của Đà Lạt, phải đập bỏ càng sớm càng tốt”. Đỉnh điểm của cơn cuồng nộ trong dư luận đó là việc công trình kiến trúc “Nhà 100 mái” (tái hiện nguồn gốc dân tộc Việt qua câu chuyện Lạc Long Quân và Âu Cơ) của kiến trúc sư Lữ Trúc Phương bị cưỡng chế đập bỏ.

Kiến trúc sư Đặng Việt Nga nhớ lại: “Nhiều người quyết định phá công trình của tôi vì họ nghĩ là không phù hợp với cảnh quan kiến trúc vốn có của Đà Lạt. Năm 1992, họ đập bỏ công trình của anh Lữ Trúc Phương. Năm 1993, họ sang bên tôi, để đập bỏ nốt. Họ không hiểu những gì tôi muốn làm, không thèm hiểu những thông điệp của tôi, không muốn có một Đà Lạt mới mẻ hơn”.

Giữa lúc ngàn cân treo sợi tóc, cô độc giữa dư luận, tiến sĩ Đặng Việt Nga đã không thể tự mình bảo vệ công trình của mình. Chị chỉ còn một cách, một hi vọng mong manh cuối cùng. “Tôi đã viết một lá thư gửi cho đồng chí Đỗ Mười lãnh đạo khi đó, trình bày về giá trị và ý nghĩa của công trình”- chị thở dài – “Chẳng biết có phải nhờ lá thư thống thiết của tôi hay không, ít lâu sau tỉnh có ý kiến cho tôi được ra mua hóa giá nhà tôi đang ở”.

Khu đất ấy vốn là của nhà nước, chị là người đi thuê. Thời đó ai cũng đi thuê nhà của nhà nước như vậy cả. Được mua rồi, thành của cá nhân rồi, muốn làm gì cũng dễ. Tiến sĩ Đặng Việt Nga kể: “Tôi mừng quá, chạy vạy tiền bạc để mua hóa giá chính cái công trình của tôi. Mừng lắm! dù sao công trình tâm huyết cả đời của tôi cũng không bị đập nữa!”.

Khách tham quan Biệt thự Hằng Nga ngày càng nhiều
Khách tham quan Biệt thự Hằng Nga ngày càng nhiều.

Sáng tạo và thành công theo thời gian

Tôi còn nhớ mười năm trước gặp chị Đặng Việt Nga tại công trình này, khi đó ngôi nhà cây rất hoang vắng, ít du khách. Nó gần như ngôi nhà hoang. Chủ nhà với bộ dạng mệt mỏi, ngồi đan bên cửa, chờ khách, nói: “Bao nhiêu tiền kiếm được tôi đổ vào công trình này. Tôi cứ làm mỗi năm một ít, cho đến khi nào tôi chết. Mấy năm, lại nghĩ ra thêm một hạng mục, lại kiếm tiền để làm”. Chị gần như suy sụp sau những tháng ngày vất vả, đơn độc: “Đây là một tác phẩm không bao giờ hoàn thành, bởi sáng tạo chính là niềm vui của tôi. Tôi cũng cầu mong có đủ kinh phí để thực hiện tiếp các hạng mục của nó, để người ta thấy hết ý nghĩa và vẻ đẹp tôi muốn gửi gắm”.

Giờ đây, ngoài khách sạn hốc cây, lâu đài mạng nhện, các công trình phụ đan cài như dây rừng, đã thêm một ngôi nhà rông Tây Nguyên. Nhìn tổng thể, ta có thể thấy một không gian núi non được tái hiện bằng kiến trúc, bao gồm nhà truyền thống của đồng bào, cây cối, chim muông, hang động… Các công trình mọc lên bao nhiêu, công sức bỏ ra cũng cao lên ngần đó.

“Con người không được tàn phá thiên nhiên, phải bảo vệ và sống chung với thiên nhiên” - chị Nga nói với về ý tưởng của công trình. Chị cũng vui mừng cho biết thêm: “18 năm sau khi cho tỉnh hóa giá nhà, mới đây tôi mới được cấp giấy sở hữu công trình”.

Với diện tích rất khiêm tốn, chưa đến 2.000m2, nhưng “Crazy House” ở Đà Lạt, Việt Nam đã trở thành một điểm đến của rất nhiều du khách trên thế giới. Nó nổi tiếng đến mức có thể tìm thấy hàng trăm trang web nước ngoài nói đến công trình này với một thái độ nghiêm túc. Chị Đặng Việt Nga nói: “Công trình của tôi tồn tại được, một phần là nhờ nghệ sĩ và du khách các nước họ đánh giá cao!”. Có những nghệ sĩ quốc tế đã nhận xét rằng “Crazy House” là cảm hứng sáng tạo cho nhiều người trong số họ.

Rất nhiều tờ báo tạp chí kiến trúc và du lịch danh tiếng xếp Biệt thự Hằng Nga - Crazy House là một trong số các công trình kiến trúc kỳ lạ nhất thế giới. Điển hình là tạp chí People’s Daily của Pháp đã bình chọn Biệt thự Hằng Nga là một trong 10 ngôi nhà kỳ dị nhất thế giới.

Sự kết hợp giữa ý tưởng độc đáo mang tính nghệ thuật hậu hiện đại, với nhu cầu sử dụng, thương mại, du lịch, cuối cùng đã đi đến thành công. Hiện tại, mỗi năm “Crazy house” đón khoảng 100.000 lượt khách tới tham quan, trong đó phần nhiều là khách nước ngoài.

Khách trong nước và nước ngoài đến Đà Lạt, ngoài nhu cầu nghỉ dưỡng, giờ đây người ta bắt đầu đi tham quan. Những điểm tham quan giàu tính nghệ thuật ở xứ sở sương mù thực ra không nhiều, điều đó lý giải vì sao “Ngôi nhà xộc xệch” ngày càng thu hút du khách cả nước ngoài lẫn trong nước. Giá vé vào cổng hiện là 30.000 đồng/ lượt. “Năm ngoái chúng tôi đã đóng thuế cho nhà nước 100 triệu đồng, năm nay dự kiến đóng thuế 200 triệu đồng” – Kiến trúc sư Đặng Việt Nga nói.

Vất vả bán vé, trò chuyện với các du khách đến từ khắp nơi trên thế giới, kiến trúc sư Đặng Việt Nga - con gái rượu của cố Tổng bí thư Trường Chinh giờ đây đã tự tin hơn rất nhiều: “Tôi không thấy mệt mỏi. Bằng kiến thức được học của mình, tôi có niềm tin vững chắc rằng trước sau gì người ta cũng hiểu, cũng đánh giá đúng công trình nghệ thuật của tôi”.

Một số nhận xét về công trình “Crazy House” ở Đà Lạt:

Công trình cho tôi thấy luật pháp Việt Nam đã cởi mở hơn, nghệ thuật đại chúng cũng ngày càng phát triển. Đó là một chuyến khám phá thú vị. (The New York Times).

Rõ ràng Biệt thự Hằng Nga được thiết kế để nhắc nhở bạn về sự hòa hợp của tự nhiên với cuộc sống, môi trường. (Star)

“Tôi thích nghệ thuật và kỹ thuật, và kỹ thuật là sự tổng hợp giữa nghệ thuật và kỹ thuật”- cô nói. (Unusual Travel Destinations)

Nguyên Anh (sưu tầm)

7/2011

(TP)

Trần Nguyễn Anh

Thứ Tư, 3 tháng 8, 2011

Một nhà văn của Đà Lạt

Nhớ Huỳnh Chính

Hồ Xuân Hương - Đà Lạt. Ảnh BN
Hồ Xuân Hương - Đà Lạt. Ảnh BN
Tôi quen Huỳnh Chính* vào năm 1982. Khi ấy, tôi vừa mới nhận việc giảng dạy văn học nước ngoài tại Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt được mấy tháng. Còn Huỳnh Chính công tác ở Sở Văn hóa - Thông tin Lâm Đồng. Anh vào trường tìm bạn văn. Trường CĐSP ĐL có nhiều cán bộ giảng dạy tốt nghiệp ĐHSP Vinh và rất đông sinh viên là người Nghệ Tĩnh. “Nhất cử lưỡng tiện”, Huỳnh Chính chẳng những tìm được bạn văn mà còn tìm được nhiều người cùng quê hương Đức Thọ, Hà Tĩnh với anh.

Những người quen anh thường gọi anh bằng tên thật Hữu Lợi. Bút danh Huỳnh Chính có từ khi anh in những truyện ngắn đầu tiên trên tờ Văn hóa Lâm Đồng. Huỳnh là tên người cha, Chính là tên con trai đầu lòng của anh. Lấy bút danh Huỳnh Chính, anh tự nhận mình là cái gạch nối giữa hai thế hệ ông và cháu.

Đầu những năm 80 thế kỷ XX, Lâm Đồng chưa có Hội Văn nghệ và Tạp chí LangBian. Nên tờ Văn hóa Lâm Đồng (sau đổi thành Văn hóa Văn nghệ Lâm Đồng) đã trở thành diễn đàn văn nghệ, nơi hội tụ sáng tác của những cây bút tên tuổi ở địa phương lúc bấy giờ và cả sau này như nhà thơ Hà Linh Chi, nhà văn Trần Hữu Lục, nhà viết kịch Phạm Kim Anh, nhà văn Huỳnh Chính, nhà văn Chu Bá Nam, nhà thơ Lâm Tuyền Tĩnh, nhà thơ Phạm Quốc Ca, nhạc sĩ Hà Huy Hiền, nhạc sĩ Trọng Thủy, nhạc sĩ Đình Nghĩ…

Huỳnh Chính sống trong khuôn viên Sở Văn hóa – Thông tin Lâm Đồng. Căn nhà anh được cấp tuy cũ nhưng khá rộng, hai phòng và bếp. Căn nhà ấy nay không còn nữa, thay vào đó là một khối kiến trúc đồ sộ của Trường CĐ Nghề ĐL. Bạn bè đến chơi nhà anh đùa rằng: “Cầm một cành tre gai kéo từ nhà trong ra nhà ngoài không vướng một cái gì cả.” Nghĩa là nhà trống không! Thật ra, thời bấy giờ hầu hết cán bộ, công nhân viên nhà nước, ai cũng nghèo như anh cả thôi. Có được một cái TV cũ, đen trắng đặt trong nhà cũng tạm gọi là có của, là sang trọng lắm rồi!

Huỳnh Chính thường hay đi. Anh đi bộ rất dẻo dai, không biết mệt là gì. “Tour” của anh có thể từ nhà đến Đại học Đà Lạt, từ ĐHĐL sang CĐSP, từ CĐSP đến Chi Lăng, rồi trở về nhà chỉ trong vài ba tiếng. Dạo đó, tôi còn là một gã trai trẻ, độc thân, ham chơi, ti toe học đòi viết lách. Nhà tôi ở gần nhà anh. Thế là tôi trở thành “cái bóng” của anh. Mỗi khi đi đâu anh thường kéo tôi theo. Tôi chở anh trên chiếc xe đạp SGGP của mình. Đạp một quãng. Lên dốc. Thở phì phò. Lại phải dắt bộ. Khi xuống dốc thì xe lao vù vù, bặm môi bóp phanh mà chỉ sợ dây phanh đứt phựt. Nhiều lần Huỳnh Chính bảo tôi vất xe ở nhà, đi bộ cho khỏe, đỡ vướng víu.

Kể cũng lạ, thời ấy tôi không biết uống rượu nhưng lại thường đi với anh - một người rất mê rượu. Rượu đối với anh giống như xăng đối với máy bay, nó giúp anh “khởi động”, giúp anh bắt vào mạch văn, để rồi hào hứng “cày ải” trên những trang giấy trắng hằng đêm. Anh có một sở thích là lâu lâu ghé tiệm thuốc bắc Ngô Như Khương trên đường Phan Đình Phùng, làm một ly rượu thuốc chính hiệu. Người mua đưa tiền và nhận rượu qua ô cửa nhỏ. Uống xong, trả lại ly qua ô cửa và …đi. Tiệm thuốc bắc ấy, bây giờ cũng đã thành dĩ vãng.

Nhiều lúc tôi cứ nghĩ: So với chúng tôi bây giờ, sức uống của anh thật không thấm vào đâu! Nhưng anh hay uống. Uống không cần thức nhắm. Dường như chẳng bao giờ anh quan tâm đến chuyện ăn. Lưng bát cơm, quả su su luộc chấm muối, rồi cũng xong. Sau ngày anh mất, trong “Nhớ bạn Lưu Linh”, nhà thơ Phạm Quốc Ca đã viết:

“Giờ mênh mông bia rượu
Tiệc chỉ thiếu gan trời
Riêng chung bát ngát nhậu
Thì chẳng còn bạn tôi?”

Ngôi nhà của Huỳnh Chính luôn rộng cửa đón bè bạn. Anh cởi mở trong giao tiếp và thích đọc văn của mình, giống như người làm thơ đọc thơ. Anh có thói quen đọc to bản thảo truyện ngắn cho mọi người cùng nghe, cả khi nó chưa hoàn chỉnh. Không cần đợi viết xong truyện, được đoạn nào là anh lại rủ tôi cùng Phan Quốc Lữ (Tiến sĩ Ngữ văn, Trường CĐSP ĐL) và một số bạn bè khác đến nghe, góp ý. Bản thảo truyện ngắn của anh dày cộp. Bởi anh viết trên những mảnh giấy nhỏ bằng bàn tay người lớn. Anh bảo viết như thế rất tiện, không ưng ý là thay ngay. Nếu dùng giấy lớn, muốn bỏ một đoạn, phải chép lại cả trang, rất mệt. Vì vậy, có giấy khổ lớn, anh cũng cứ rọc đôi, rọc tư. Quả là một kinh nghiệm quý cho người viết văn trong thời bao cấp, khi mọi thứ đều khan hiếm, chưa có computer. Những truyện ngắn của anh như “Người vợ chồng tôi”, “Tròng mắt hạt chè”, “Theo con suối chảy về phía mặt trời mọc”… được hình thành từ những xấp bản thảo như thế.

Người ta nói: “Văn là người.” Ngoài đời Huỳnh Chính rất hiền. Anh hay cười. Mỗi khi cười, mặt anh đầy nếp nhăn. Phan Quốc Lữ nhận xét những lúc ấy trông anh giống M.Gorki. Truyện ngắn của anh cũng rất “hiền” và ấm áp tình người. Nhân vật chính là những con người vừa bước ra khỏi chiến tranh với bao nhiêu khó khăn, trở ngại, thử thách nhưng vẫn luôn giữ được tấm lòng nhân hậu như Lân (“Người vợ chồng tôi”), Phúc (“Chúng tôi sống như thế đấy”), ông nội và Phúc (“Mẹ con tôi”) v.v… Diễn biến câu chuyện có thể gai góc nhưng kết thúc thường có hậu. Anh rất ngại để cho nhân vật của mình phải chết hoặc kết thúc đầy bi kịch. Anh nói: “Cái tạng của mình nó thế!”. Một số sáng tác sau này của anh có xu hướng phê phán những hiện tượng chưa lành mạnh trong cuộc sống. Đó là những truyện ngắn “Người được lãnh thưởng”, “Người viết chân dung ông giám đốc”, “Một nỗi buồn chung”… Anh muốn tìm tòi, đổi mới – viết khác cái “tạng” của mình đi. Nhưng cách nhìn người, nhìn đời của anh thì vẫn không thể khác được, vẫn chất phác và đôn hậu.

Năm 1998, từ nơi xa nghe tin anh qua đời. Tôi sững sờ. Không hề nghĩ sẽ không còn được gặp lại anh nữa! Tôi bỗng nhớ cái ngày xa xưa, khi tôi hăm hở mang bản thảo truyện ngắn đầu tay của mình đến… Vừa liếc qua, anh đã nói: “Cái tít này không phải của truyện ngắn.” Anh chăm chú đọc hết truyện. Đọc xong hồi lâu, anh chép miệng bảo: “Viết văn xuôi nhọc lắm! Hay là ông làm thơ đi!” (Anh bao giờ cũng xưng hô với tôi là “ông” và “mình” mặc dù anh chỉ kém mẹ tôi hai tuổi). Tôi sầu não mất mấy ngày.

Những lúc nghĩ đến Huỳnh Chính, tâm tưởng tôi lại vang lên những câu thơ hiếm hoi của anh - “Kỷ niệm một cơn mưa chiều” - qua giai điệu mượt mà của Đình Nghĩ hơn 20 năm trước. Bài hát - bài thơ gợi lại trong tôi những kỷ niệm về một thời rất trẻ từng được làm bạn vong niên với anh:

“Đã có nhiều người nghĩ
Về những cơn mưa chiều
Và đã biết bao nhiêu
Thơ chiều mưa Đà Lạt.

Em có thấy ai ướt
Cơn mưa chiều ấy chưa?
Anh chỉ thấy trời mưa
Rắc đầy đường hoa tím!...”

Đà Lạt tháng 8 – 2011

* Bút danh của Nguyễn Hữu Lợi (1942 – 8/1998). Tác phẩm: “Theo con suối chảy về phía mặt trời mọc”, Sở VH-TT LĐ xuất bản; “Chúng tôi sống như thế đấy”, Hội VHNT LĐ, 2001
Hoàng Trọng Hà



LCL: Đang ở Đà Lạt, mò mạng Báo Lâm Đồng, gặp lại ông bạn già thuở sinh viên. Nhớ, Huỳnh Chính, một người rất rất nhớ của mình mỗi lần nghĩ về Đà Lạt... Nhớ có lần đã trở lại nhà để thắp hương cho anh, mình có viết bài thơ... Mấy lần về Đà Lạt gần đây, mình tá túc VPTT Báo Tuổi Trẻ của Nguyễn Hàng Tình, đường Hoàng Văn Thụ nơi này xưa là Sở VHTT Lâm Đồng, nơi từng "oanh tạc" không biết bao "trận" với anh Huỳnh Chính, Hoàng Tiến Dũng, Minh Tự,... Sao quên được cái thuở sinh viên đẹp như chính cuộc đời này!...

Thứ Tư, 6 tháng 7, 2011

dịch lu

8 địa danh du lịch nổi tiếng của Phú Yên

Không chỉ mang nét duyên của thành phố ôm trọn hai ngọn núi, Phú Yên còn mê đắm lòng người ở những đầm nước trong vắt, những bãi biển bao la, gành đá đĩa kỳ thú.

Núi Nhạn

Nằm trên bờ bắc sông Đà Rằng, tọa lạc trong trong khu vực nội thị thành phố Tuy Hòa, núi Nhạn, (hay còn gọi là núi Bảo Tháp, Núi Dinh) tựa như một lá phổi xanh khổng lồ có hình một chú chim nhạn đang tung cánh. Ngoài vẻ hùng vĩ của những tán cây rừng, núi Nhạn còn “hút” ánh mắt của du khách với tòa tháp Chăm cao sừng sững trên đỉnh núi. Màu xanh của cây, màu gạch chàm khiến ngọn núi trở nên linh thiêng và bí hiểm. Sau khi chinh phục chiều cao của ngọn núi, ngắm những họa tiết trang trí trên tháp, khám phá hang Hàm Rồng, du khách sẽ phát hiện một thành phố Tuy Hòa khác với những những ruộng lúa chen giữa những toà nhà, cùng bức tranh nước thanh bình của sông Đà mang lại nét thanh bình và dân dã nhìn từ núi Nhạn.

Núi Nhạn thuộc địa phận phường I, thành phố Tuy Hòa.

8 địa danh du lịch nổi tiếng của Phú Yên

Vực phun

Vực phun tọa lạc tại xã Hòa Mỹ Tây, huyện Tây Hòa. Tên gọi của địa danh gắn với việc nhìn từ xa, có cảm giác dòng nước đang phóng ngược từ vực nước xanh ngắt, đập mạnh vào vách đá, tung bọt trắng xóa, chứ không phải là hình ảnh thác nước lao xuống từ độ cao 15m rồi hoà vào vực. Ngoài cảm giác thư giãn khi hòa mình vào dòng nước mát lạnh của dòng suối dưới chân thác, cái thú vị là người ta được khám phá những bí ẩn của vùng núi Đá Đen hay men theo đường mòn khám phá thượng nguồn sông Bánh Lái.

8 địa danh du lịch nổi tiếng của Phú Yên

Đầm Ô Loan

Đầm Ô Loan gắn với truyền thuyết về một nàng tiên tên Loan, cưỡi chim ô thước dạo chơi vùng trời Nam. Khi đến vùng đất này, nàng nảy sinh tình yêu với chàng trai nghèo siêng năng, chăm chỉ, nên nàng ở lại trần gian bầu bạn cùng chàng.

Vào lúc bình mình, khi mặt trời vừa nhô lên từ những triền núi thấp, đầm Ô Loan trông như một chú chim khổng lồ đang trong tư thế sẵn sàng tung cánh bay vút lên bầu trời. Cũng góc nhìn ấy, nhưng trong ánh sáng nhập nhoạng của hoàng hôn, đầm tựa như một con chim đang xoải cánh tìm chốn bình yên bên mặt hồ gợn sóng.

Ngoài chiêm ngưỡng vẻ đẹp say lòng người của đầm, đến đây du khách còn được thưởng thức thủy sản phong phú, đặc biệt là món sò huyết Ô Loan nổi tiếng.

Đầm Ô Loan thuộc huyện Tuy An, Phú Yên.

8 địa danh du lịch nổi tiếng của Phú Yên

Gành đá Đĩa

Nhìn từ xa, gành trông như những chồng đĩa trong lò gốm hay trò chơi logo nhô ra ngoài biển. Du khách có thể dạo chơi trên những tầng đá, cảm nhận vị mặn của biển, cái rát nhẹ của gió, cảm giác ồn ào của những đợt sóng đập mạnh vào bờ, hay ngắm những đoàn thuyền trên biển. Sau khi thỏa thích dạo chơi trên gành, bãi tắm trải dài gần 3km hứa hẹn mang đến cho du khách những giây phút thư giãn. Nếu thích, du khách cũng có thể thử tài cần thủ với những loại cá biển sống trong các gành đá hay đi cạy ốc vú nàng.

8 địa danh du lịch nổi tiếng của Phú Yên

Đảo hòn Chùa

Hòn Chùa nằm ngoài khơi vùng biển Long Thuỷ, thuộc xã An Phú, TP.Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên, cách bờ khoảng 7km. Nhìn từ đất liền, đào như một tấm thảm xanh phủ trên mặt trên biển. Song đến gần lại thấy đảo được tạo nên bởi những tầng đá chồng lên nhau. Do đặc điểm đó, trên đảo không có cây lớn mà chỉ có những bụi cây thấp và những trảng cỏ trải dài. Đến đảo, ngoài thưởng thức món mực nang nổi tiếng của nơi này, du khách còn có thể ngắm những những bụi san hô nhiều màu sắc nằm trong khu vực biển đảo.

8 địa danh du lịch nổi tiếng của Phú Yên

Biển và hải đăng Đại Lãnh

Đại lãnh làm say lòng người với bãi Môn trong veo, những triền cát trải dài nhấp nhô như những loạt sóng trên cạn. Không chỉ được tắm biển, đến đây, du khách còn được tắm mát trong dòng nước lúc ngọt, lúc lợ của con suối hiền hòa chảy quanh năm. Nhưng thú vị nhất là men theo đường mòn, lên ngọn hải đăng, ngắm vùng biển bao la xanh ngát, những đoàn tàu chậm chậm trôi, những núi đá hình dáng kỳ lạ hay trở thành một trong những người đón ngày mới sớm nhất tại "ngọn hải đăng cực đông" của Tổ quốc.

8 địa danh du lịch nổi tiếng của Phú Yên

Vũng Rô

Là một vịnh nhỏ được thuộc xã Hòa Xuân Nam, huyện Đông Hòa, tỉnh Phú Yên. Vịnh được bao bọc trong ba dãy núi cao là Đèo Cả, Đá Bia và Hòn Bà. Vũng Rô có 12 bãi nhỏ là Bãi Lách, Bãi Mù U, Bãi Ngà, Bãi Chùa, Bãi Chân Trâu, Bãi Hồ, Bãi Hàng, Bãi Nhỏ, Bãi Chính, Bãi Bàng, Bãi Lau, Bãi Nhãn. Mỗi bãi có một đặc điểm riêng nhưng đều hữu tình với những cung biển xanh ngát, những triền cát trải dài phù hợp cho khách tham quan, tắm biển hay thưởng thức hải sản. Du khách cũng có thể thuê thuyền của ngư dân ra biển khám phá cái bao la của đại dương hay chinh phục đỉnh Đá Bia lúc nào cũng chìm trong sương trắng gần đó.

8 địa danh du lịch nổi tiếng của Phú Yên

Vịnh Xuân Đài

Từ trên đỉnh dốc Găng, du khách sẽ được chiêm ngưỡng bức tranh sơn thủy hữu tình với rừng dừa bạt ngàn, núi non hùng vĩ bao bọc lấy một vùng nước non trong xanh của vịnh Xuân Đài thuộc địa phận các xã Xuân Thọ, Xuân Thịnh và thị trấn Sông Cầu của tỉnh Phú Yên. Trong vịnh có nhiều vũng biển và bãi tắm đẹp như Vũng La, Vũng Sứ, Vũng Chào cùng nhiều đảo, bán đảo. Các bãi tắm của nơi đây đều sở hữu làn nước trong vắt và không sâu, du khách có thể bơi ra xa mà không sợ nguy hiểm.

8 địa danh du lịch nổi tiếng của Phú Yên

(theo Bưu điện Việt Nam)

Thứ Ba, 26 tháng 4, 2011

"Rồng lộn"

Nhà thơ Hữu Thỉnh và các nữ sinh viên Nga học tiếng Việt tại

Đại học Khoa học xã hội nhân văn, tham dự Hội nghị Quảng bá

văn học Việt Nam ra nước ngoài, Hà Nội tháng 1.2010.

Xin đừng mê gái theo kiểu “Ông Tuyệt Vời”!

TÔ HOÀNG

...Năm 1981 hay năm 1982, tôi không nhớ chính xác, nhà thơ Hữu Thỉnh đi trong đoàn nhà văn Việt Nam sang Nga. Trong đoàn còn có hai thành viên quan trọng khác là hai nhà văn cao niên Vũ Tú Nam và Chính Hữu. Vào thời điểm đó Hữu Thỉnh là Tổng Biên tập báo Văn nghệ hay đã là Phó Tổng thư ký Hội Nhà văn VN? Chịu, không nhớ nổi! Giống như các đoàn nhà văn Việt Nam qua đây, bạn bố trí cho đoàn của Hữu Thỉnh ở tại khách sạn Ucraina, nằm trên bờ sông đào Moskva. Lúc đó, mới bước vào hè được vài ngày, điều này thì tôi nhớ đinh ninh. Mùa hè Nga có thể ví như mùa xuân ấm áp, cây lá đâm chồi nẩy lộc, muôn vật giao phối để giữ lấy bày đàn, dòng giống như mùa xuân ở xứ mình. Sau cả một mùa đông giá buốt, phải khoác lên mình hàng chục ký lô len dạ, bước vào hè người xứ lạnh tung hê, cởi bỏ hết để hưởng thụ cái thơ thới, nhẹ nhàng; để gió mát và nắng nỏ thấm được vào tận làn da, thớ thịt. Mùa hè cũng là dịp duy nhất trong một năm các cô gái Nga được phô phang làn da mịn màng như trái lê, trái táo; những đường cong mềm mại, khêu gợi như đang chơi trò ú tim dưới làn vải mỏng trên cơ thể. Tranh thủ những lúc đoàn nhà văn Việt Nam không phải họp hành, gặp gỡ hoặc đi tham quan nơi này nơi khác, tôi liền phóng taxi tới đưa Thỉnh thung thăng dạo chơi dọc theo sông đào Moskva, lên đồi Lê nin, hoặc ghé vào những khu công viên gần khách sạn nơi Thỉnh ở. Đi bên Thỉnh, tôi tủm tỉm cười nhận ra nhà thơ lại cọ cọ múi thịt trên hai bàn tay vào nhau, miệng chúm lại xuýt xoa mấy tiếng quen thuộc: “Tuyệt vời! Tuyệt vời”. Xuýt xoa, tuyệt vời với cây cỏ, trời đất; xuýt xoa, tuyệt vời càng mau mắn hơn, nồng nàn hơn trước các kiều nữ Nga 16, 17 tuổi, đang còn học năm cuối phổ thông, đang ở tuổi bung nở hết vẻ đẹp vừa chín tới của mình. Không biết chuyến ấy có phải là lần đầu tiên Thỉnh sang trời Tây không? Bỗng thấy thương Thỉnh, một anh lính như mình. Bỏ hết tuổi thanh xuân tại những cánh rừng thừa mứa tiếng ùng òang, hơi thuốc bom, thuốc đạn mà thiếu hẳn tiếng cười, ánh mắt của những người con gái; đất nước vừa hòa bình, mang di chứng sốt rét rừng, bệnh gan, bệnh mật, nhưng “nóng máy” rồi, vội vã phải lấy vợ, vội vã phải sinh con mà nối dõi tông đường. Tiếp sau đó là chen chúc trên những chiếc giường mét hai, tối mắt tối mũi vì chậu tã lót của con, mớ tem gạo, tem đậu phụ vợ ấn vào tay mỗi sớm để khi chiều rời cơ quan, tự nguyện đứng vào những hàng rồng rắn, nồng nặc mồ hôi, san sẻ bớt gánh nặng gia đình. Thuở ấy, trong ngôn từ của người Việt - cả ở trong nước lẫn ở nước ngòai- chưa xuất hiện hai từ “đặc sản”. Trong một buổi chiều đi dạo với Thỉnh như thế, bỗng nẩy sinh câu hỏi: Mà sao không kéo ông bạn vàng về ký túc xá của mình cho hưởng thứ “đặc sản” tóc vàng, mắt xanh? Các em nữ sinh viên Trường đại học Điện ảnh Liên Xô nổi tiếng kiêu kỳ, đài các nhất Moskva, nhưng đấy chỉ là các “bà cụ” ở khoa diễn viên thôi. Các em này có tài thật nhưng đâu có đẹp? Những “bà cụ” ở khoa Kinh tế, khoa Lý luận phê bình mới thật sự sắc nước hương trời. Con cái các quan chức, quá đẹp nên học dốt, tìm tới hai ngành kinh tế và lý luận mà thi, vừa dễ, vừa vẫn mang danh thơm là dân trường điện ảnh. Sau hai năm học, tôi có cả một tá “bà cụ” thân hữu ở hai khoa ấy. Một buổi tối quây quần, ăn uống, nhẩy nhót, phải duyên thì ngả đi văng ra, thả rèm xuống; không phải duyên thì làm vài vòng ôm eo, gửi vài cái thơm trên má, trên mái tóc và chia tay nhau, anh ả ra về. Không ép buộc, không cưỡng bức-cái quan hệ khác giới kiểu ấy người Tây vốn xem là lẽ thường tình. Nhưng sao tôi vẫn đinh ninh tin, nếu anh bạn xe tăng của tôi lao vào cuộc tất sẽ lướt tới, sẽ ào ạt xông lên và cắm cờ được!

Tôi nói ngay ý định ấy với Thỉnh. Đang đi, ông bạn nhà thơ đứng phắt lại, hai mắt tròn xoe, hai bàn tay đã đặt vào nhau, thảng thốt:

- Có thật thế không?

- Chả lẽ mình lừa ông à? Tính ngay lịch đi xem tối nào rảnh?

Thỉnh rối rít:

- Có đẹp không? Tóc vàng, da trắng, mắt biếc xanh chứ?

- Đương nhiên rồi! Ông còn nhớ bài thơ Con cá chột nưa của cụ Tố Hữu không? Lần này thì tớ sẽ giúp cậu biết thế nào là “lão nằm mơ nước Nga”!

Đến đây, hai cùi thịt trên bàn tay bắt đầu xoa vào nhau và tiếng “Tuyệt vời!” bật lên đến ba, bốn lần.

Im lặng 30 giây, Thỉnh hỏi tiếp:

- Có an tòan không? Công an Nga không để mắt tới chứ?

- Tay công an Nga phụ trách ký túc xá đã là “đệ tử lưu ly” của rượu “Lúa mới(2) rồi!

- Tuyệt vời!

- Có mất tiền không?

- Bạn hữu sinh viên tầng trên tầng dưới mà… Tiền nong gì?

- Tuyệt vời!

- Có sợ lây bệnh không?

- Đã bảo các “bà cụ” ấy đều là dân sinh viên. Mỗi năm khám sức khỏe tới hai lần. Sao có bệnh được!

- Tuyệt vời!

- Liệu Sứ quán có biết không?

- Bọn ấy còn máu “các bà cụ Nga” hơn cánh tớ!

- Tuyệt vời !

Để hấp dẫn, cuốn hút nhà thơ hơn, tôi phác vẽ cho Thỉnh hình dung ra khung cảnh linh thiêng, ấm áp đầy chất Á Đông sẽ xẩy ra trong buổi tối gặp gỡ các “bà cụ” Nga. Tôi sẽ đi chợ nông trường (chứ không phải đến các quầy hàng bán thực phẩm của nhà nước) để mua thịt tươi còn ròng máu, cá, tôm tươi còn vẫy đuôi trong bể, hành lá, su hào, cà rốt, bắp cải tươi... Tôi sẽ tự tay làm các món ăn Việt mà tôi biết rõ các “bà cụ” Nga rất khoái khẩu. Rượu thì có cả “Lúa mới”, rượu làng Vân, lẫn “Mao đài”. Sẽ trải thảm, kê chiếc bàn chân thấp giữa phòng. Trước nơi ngồi ăn sẽ lập một bàn thờ, hương nhang Việt tỏa khói nghi ngút. Trên tường treo một bức giấy điều viết một chữ nho bằng mực tàu. Nhạc dứt khóat phải là Kitaro. Các “bà cụ” Nga phải ăn bằng bát, đũa; lọai bỏ thìa, nĩa; phải ngồi sệp trên thảm, chân quặt ra phía sau...

- Ông biết viết chữ nho à?

- Thiếu gì nhãn mác có chữ tượng hình. Cứ phóng đại lên. Trong hương khói, trong tiếng nhạc Kitaro u ẩn, trầm buồn, tất cả đậm đặc chất phương Đông ngay!

- Tuyệt vời! Tuyệt vời! Thỉnh nắm lấy bàn tay tôi siết chặt- Đúng là dân học đạo diễn có khác. Hình ảnh, âm thanh, sắc màu… đâu ra đấy!

- Các “bà cụ” Nga ngồi sệp là phải cởi bỏ sạch jeal, bò. Phải biến thành “Rồng lộn” hết!

Gương mặt Thỉnh thóang vẻ ngơ ngác hiếm thấy:

- “Rồng lộn” là làm sao?

- Là vận áo kimono Khâm Thiên vào. Áo sa tanh thêu hai con rồng uốn lượn ở hai tà áo phía trước. Mặt hàng Việt Nam đang bán chạy ở bên này đấy! Áo sa tanh xanh thì thêu rồng vàng. Áo sa tanh trắng thì thêu rồng đỏ. Áo sa tanh đỏ thì thêu rồng trắng. Kimono, kimoniec, tiếng Anh, tiếng Pháp gọi cho mỏi mồm. Anh chị em xuất khẩu lao động Việt nam ở bên này nói thế và gọi vắn tắt là “ Rồng lộn”. Chắc ông chưa từng một lần mục kích các “bà cụ” Nga mặc “Rồng lộn” Việt Nam nhỉ? Tiên nga dáng thế cũng phải gọi “Rồng lộn” bằng cụ. Ông hãy chuẩn bị tinh thần, kẻo gặp mấy em là ngất xỉu liền!

- Sợ đếch gì đám “Rồng lộn” của ông! - Nhà thơ hăng hái hẳn lên.

Chúng tôi chia tay. Hôm ấy là chiều thứ 5. Chiều thứ 6, Thỉnh sẽ tháp tùng hai cụ Vũ Tú Nam, Chính Hữu tới thăm Aimatov hay Gamzatov tôi không tường. Tôi hẹn sẽ đón Thỉnh tới Ký túc xá trường Điện ảnh vào tối thứ bẩy.

22 giờ tối thứ sáu, đi với cụ Vũ Tú Nam, cụ Chính Hữu về Thỉnh còn gọi điện cho tôi than phiền mấy bộ đồ anh mang từ Việt Nam sang không có bộ nào xứng để ra mắt các “bà cụ” Nga. Anh bảo mang mấy bộ đồ của tôi tới để anh lựa. Chả là thời đó vóc dạc của anh và của tôi cũng từa tựa nhau. Tôi mang mấy bộ đồ đã ủi, bắt xe taxi đến chỗ anh liền.

Buổi sáng và buổi trưa thứ 7 tôi túi bụi, sấp ngửa với một núi công việc. Đi mời mấy “bà cụ” Nga, đi chợ nông trường, ướp thịt ướp cá, xào nấu. Tiếp tới là dọn dẹp và bày biện lại gian phòng như ý muốn. 6giờ 30 theo đúng hẹn các “bà cụ” Nga đã tới, ríu rít tung tăng tranh nhau mấy bộ đồ “Rồng lộn”. Tôi gọi điện cho Thỉnh.

- Chuẩn bị xong cả chưa?

- Xong hết rồi!

- Tuyệt vời!

- Ông bắt taxi xuống ngay đi!

- Các “bà cụ” Nga xuất hiện chưa?

- Đến hết cả rồi!

- Tuyệt vời!

- Xuống nhanh lên, đừng để bọn nó chờ.

Im lặng.

- Hóa ra là chuyện thật à? Thỉnh bất ngờ hỏi.

- Ông nghĩ tôi lừa ông sao?

- An tòan chứ? Không tai tiếng gì chứ?

Tôi như gắt lên trong máy:

- Thì cứ xuống đi. Trước là uống rượu, ăn uống với nhau. Sau là nhẩy múa... Làm đếch gì mà sợ tai tiếng mới không an tòan?

Tiếng xuýt gió:

- Tuyệt vời! Tuyệt vời!

Lại im lặng. Lần này lâu hơn, đến một phút, tiếng Thỉnh ngập ngừng ở đầu giây bên kia:

- Tối nay Hội Nhà văn Nga mời đến Nhà hát Lớn xem Hồ Thiên Nga..

Tôi vẫn giữ nguyên giọng cáu kỉnh:

- Thì ông để hai cụ Vũ Tú Nam, Chính Hữu đi. Ông cáo ốm nằm ở nhà, ra phố bắt taxi xuống đây. Sáng mai tôi đưa về sớm khi hai cụ ấy còn đang tít mít ngủ .

Tôi chờ tiếng xuýt gió và hai tiếng “Tuyệt vời” quen thuộc. Im lặng 30 giây nữa. Và sau đó, Thỉnh hạ thấp giọng, nhưng cương quyết:

- Không được rồi! Ông thông cảm cho tôi. Để hai ông ấy đi xem một mình không tiện tý nào!

Tôi đã mất nhiều thời gian, đã huy động cả một núi từ hội Nga để làm cho các “bà cụ” Nga háo hức, nóng lòng chờ đợi nhà thơ - lính cựu của tôi. Lúc này, tôi phải mất từng ấy thời gian và vốn từ hội Nga như thế nữa để làm sao cho các “bà cụ” Nga tin được rằng anh bạn tuyệt vời lãng tử, tuyệt vời ga-lăng, vào sống ra chết coi như cái phủi tay ấy (như tôi đã véo von với với chị em) lại có thể khước từ rượu ngon gái đẹp, nhạc Kitaro mà đi theo hai ông già tới nhà hát xem vũ kịch? Chưa hết, tôi còn phải tiếp rượu ngần ấy “bà cụ” và khi tất cả đã chếnh chóang say rồi còn bị ngần ấy “bà cụ” đầu độc giữa ngào ngạt mùi nước hoa, mùi son phấn trộn lộn mùi mồ hôi đàn bà Tây để chuyền tay nhau cái thằng tôi trong những điệu nhẩy giật giã. Toi công. Phờ phạc. Và nỗi bực tức anh bạn nhà thơ- lính cựu trong tôi dâng lên đến nghẹt thở. Cứ như mình lính láp nhăng nhố, lá số tử vi đã chỉ ra rằng con đường họan lộ hanh thông nhất cũng chỉ tới chức phó phòng hành chính, vì thế có món ngon, món tươi sống nào xài tắp lự, chả cần phải phòng ngừa, nghiêng ngó trước sau. Đằng này bị cung quan lộc nó ám đây mà!…

(theo nhavantphcm.com.vn)

PHAM DUY hầu kí

 ĐỌC HỒI KÝ PHẠM DUY (1)  Bất ngờ tôi đọc Hồi ký nhạc sĩ Phạm Duy. Ít ai dám viết thật như ông. Sau đây là vài ghi chép tôi rút ra từ bộ hồi...