Thứ Hai, 15 tháng 10, 2012

Một bạn văn


Nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng: Giấc mơ đời hư ảo...











Mới đó mà sắp đến giỗ lần thứ 6 của Nguyễn Xuân Hoàng, một nhà văn của miền Trung từ giã cuộc đời ở tuổi 40. Văn và đời của anh để lại bao ngưỡng vọng và tiếc nuối cho người ở lại. Các bậc tài hoa bạc mệnh luôn là một ân hận, chông chênh cho cõi  người...

Hiệp sĩ buồn
Còn nhớ một ngày cuối năm 2006, anh Ba Đà Rằng, một cựu sinh viên Văn khoa Huế, gọi điện cho tôi: "Sáng nay, vợ con lay mãi không dậy, thế là Hoàng…". Sao thế, Hoàng ơi?. Trong mắt nhiều bạn viết cùng thời, Nguyễn Xuân Hoàng là một nhà báo, nhà văn trẻ tài hoa. Tôi cũng vừa mới đọc sáng tác của Hoàng đăng báo…
Nguyễn Xuân Hoàng dáng mảnh mai, nói năng nhỏ nhẹ nhưng đầy khí chất và niềm ấp iu cuộc sống. Cái cách ăn nói trầm ngâm, ưa sách vở mà cũng mê lang bạt như thế nên Hoàng viết tản văn, tạp bút, tản bút, tản mạn, nhàn đàm… mà anh gọi chung là tùy bút - đều hay là điều dễ hiểu. Kiểu viết này đã khắc tên Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, Xuân Diệu, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Băng Sơn, Ngô Văn Phú… Ai bảo tùy bút là dễ hay khó đều có lý, ai viết cũng được nhưng viết hay thì không nhiều.
Tuy Hòa sau một đêm bù khú miệt mài, Hoàng rút tập tùy bút "Hương mùa thu" (NXB Thuận Hóa, 2001)… tặng tôi; rồi sau đó lại cũng một tập tùy bút nhan đề "Cỏ lau tóc mẹ" (NXB Thuận Hóa, 2003), cùng hàng trăm bài báo với tay nghề chữ nghĩa sắc sảo... Vẫn lối viết nhỏ nhẻ, nửa mờ nửa tỏ, ấp iu từ một chiếc lá kim, đôi sợi rơm quê đến chút ngẫm ngợi về thế sự nhân tình, tùy bút Nguyễn Xuân Hoàng rủ rỉ xa xót và ngọt ngào từng trang, từng trang rà ruột đến cả… bìa. Hãy nghe Hoàng tả cái khát vọng cuộc đời: "Gọi mùa xuân có hoa mai vàng, nở rưng rức như khóc. Gọi mùa hạ có hoa phượng cháy đỏ, nở như bếp lửa nhà ai iu ấp. Gọi mùa thu có hoa cúc tiết Trùng cửu, hương như đường mê, vàng chưa thôi những ngày tao ngộ. Gọi mùa đông có hoa hoàng hậu nở đỏ se sắt. Xa vắng trên những cội cây cao lung linh một bầy hoa rực rỡ như vương miện" (Gọi). Ồ, thì ra cuộc đời đẹp đến vậy! Lại tưởng, người ta viết về Huế đã mòn, vậy mà Huế hiện lên trong tản văn Nguyễn Xuân Hoàng gần gụi mà hun hút khác thường: "Dường như mỗi người có một cách riêng để yêu hoa. Có người chỉ thích hoa dại. Ven bờ thành nội Huế đẹp nhất là Cổ cò, thân mỏng, hoa trắng, cánh nhỏ, hương ngai ngái xa. Đây cũng là hoa trên bàn khách của những cặp vợ chồng nghèo"…
Đã có một sinh viên Đại học Huế làm luận văn "Huế trong tản văn của Nguyễn Xuân Hoàng…".
Ngồi trò chuyện với Hoàng, nếu ai không đồng cảm sẽ thấy "cha này" hơi dị dị. Bởi Hoàng chẳng những quan tâm đến một thoáng chuông ngân, mấy cọng cỏ thanh trong thơ Đường, mà còn tỉ mẩn đếm từng chiếc lá bàng bên ngoài cửa quán, hoặc cái thân cây này vì sao nhiều sẹo. Đang ngồi trong bữa đặc sản vang lừng, vậy mà chàng ta cứ nằng nặc đòi… xị rượu trắng để lên núi Nhạn sờ tay vào chân tháp cổ. Cái bản tính yêu thiên nhiên đất trời đã in dấu trong từng công chuyện của anh. "Chỉ về lá thôi cũng đã có khối chuyện nói. Đó là những câu chuyện sinh học, nghe rất lý thú. Nó mở ra trong tâm thức một sự sinh tồn triết học đáng nể. Mùa đông sở dĩ nhiều loài cây cho lá rụng là để bảo toàn nước trong thân cây. Đừng nhìn những hàng cây trơ trọi mà nghĩ là cây buồn vì thiếu lá. Rồi lá sẽ mọc lại, còn những chiếc lá cũ sẽ là kỷ niệm, của đời cây" (Trò chuyện với cây xanh). Nhà văn thì buộc phải có một chút lẩn thẩn nhưng đọc đoạn viết trên, tôi chợt thấy cỏ cây cũng như văn Hoàng không vẩn vơ chút nào. Trở về sau đợt đi Tuy Hòa lần ấy, Nguyễn Xuân Hoàng viết "Tháp xưa chim Nhạn bay về"…
"Hương mùa thu" và "Cõi tạm phù hoa", cuốn sách đầu tiên và mới nhất của Nguyễn Xuân Hoàng.
Đọc văn bạn, chưa chắc là mến bạn. Viết về bạn, chưa chắc là khen bạn. Điều tôi thấy được từ Hoàng là cái sự tự nhiên lẽ thường, hữu xạ tự nhiên hương, mắc mớ chi mà đao to búa lớn. Thể loại tùy bút cũng vậy, mấy ai nên danh nên tướng từ đó. Ừ, ta se sắt mến mộ cuộc đời thì tâm cảm đôi dòng cho đỡ nỗi tan man; có gì đâu một đôi điều bày giải của anh chàng gầy rộc vùng eo. Cái mặt nhậu đã mòn, vậy mà thỉnh thoảng giở đôi tờ báo lại thấy nhàn đàm, tạp bút, tản văn Nguyễn Xuân Hoàng khiêm khiêm xuất hiện; đã bảo có gì phải vội mà văn "cụ" này cứ riết róng bắt mình dán mắt vào rồi ngẫm ngợi lan man. "Ước mơ giản dị nhất, cũng là cao quý nhất của con người vẫn là có nhà ở, có cơm ăn, có áo mặc, và được học hành. Thời đại nào, chính sách nào, cơ chế nào cũng phải xoay quanh cái trục đó, lấy cái trục đó làm tiêu chí định lượng đánh giá sự phát triển. Xa rời tiêu chí đó một giờ, một buổi, một ngày là mất dân, mất lòng dân. Vì vậy mà cổ thư bảo chăn dân lòng sợ hãi như người cầm sợi dây mục mà điều khiển sáu con ngựa. Sách đã ghi vậy ai đọc, ai làm?". Làm chi mà già rứa, Hoàng ơi! Mà dân viết vốn chậm, lại hay cả nghĩ, vậy nên mới ngoài ba mươi cũng buộc già dặn thôi, chứ chả lẽ mãi làm "nhà văn trẻ"...
Trông vậy chứ Hoàng không phải chỉ là người hướng nội, bởi anh nguyên là một phóng viên, rồi Phó phòng Chương trình Đài Phát thanh Truyền hình Thừa Thiên - Huế, hội viên Hội Nhà văn tỉnh này. Trước khi mất không đầy một năm, Hoàng vừa chuyển qua làm Thư ký tòa soạn Tạp chí Sông Hương. Tôi thấy Hoàng không phù hợp với nghề báo, dẫu nghề này đã giúp anh gặp gỡ và thẩm thấu nhiều điều hay từ những người giàu tư chất…
Cõi Hoàng ở lại
"Cõi tạm phù hoa" là tập sách thứ 5 và là cuốn thứ hai của Nguyễn Xuân Hoàng do bạn bè góp tay in. Đầy đặn 360 trang sách với chân dung "người buồn trước tuổi" đằm đặm trên bìa đen trắng. Sau "Hồn mai" (2007) cũng với ngần ấy trang tùy bút do bè bạn góp tay in, lần này là "Cõi tạm phù hoa" với 20 truyện ngắn, 17 bài thơ, 9 chương của cuốn "Bút ký chân dung nhạc sĩ Trịnh Công Sơn" sắp hoàn thành và 8 bài viết của bạn bè về Hoàng. Mới đó mà đã 5 năm, nhà văn của rao rát miền Trung này rời cõi tạm ở tuổi 40. Nguyễn Xuân Hoàng là người con Quảng Ngãi, thành danh tại Huế.
Ở đất Thần Kinh, dân văn nghệ thường lưu truyền "Bạn bè ở Huế thương nhau thiệt/ Một đứa vợ la, cả bọn kinh". Thế nhưng được bạn tương kính như Nguyễn Xuân Hoàng thì không nhiều. Vượt qua bao mè nheo cuộc sống, họ vẫn đăm đắm cái tình với Hoàng, với văn tài của anh. 5 năm, hai cuốn sách tấm lòng đặt trên bàn thờ Hoàng, mà lại in đẹp và trang trọng lắm. Hỏi trong cõi tạm này, ai bằng Hoàng?
Và đời cảm thấy nợ Hoàng chăng? Nhiều khi tôi băn khoăn: Không hiểu Hoàng lấy đâu ra năng lượng để sống và làm việc gấp nhiều như thế? Có lần Hoàng đã trả lời: "Nhờ... cỏ!". Nhưng rồi Hoàng phải đi sớm vì chăng nỗi thương yêu và nỗi buồn đã quá sức bình sinh...
Về tùy bút Hoàng, nhà thơ Mai Bá Ấn viết: "Nếu Nguyễn Tuân ra đi đã trao thể bút ký và tùy bút lại cho Hoàng Phủ, thì người xứng đáng mà sau này Hoàng Phủ trao lại thể loại này, chắc chắn là Nguyễn Xuân Hoàng chứ không ai khác…". Trong truyện ngắn, chất duy mỹ, ôm níu con người của Hoàng lại làm người đọc bất ngờ từ một hướng khác. Truyện ngắn Nguyễn Xuân Hoàng là những nhát cắt ma mị, kết tinh tâm thức của người văn sớm thấu lẽ đời. Cách dựng truyện của anh thoải mái đến nỗi không còn ai nhận ra ấy là bịa. Lối viết không quá câu nệ vào cốt truyện nhưng sâu xoáy hút hồn bằng nhạc cảm, làm tôi liên tưởng đến bút pháp Pauxtốpxki.
Rồi khi làm thơ (thường thì Hoàng làm thơ để hát mỗi khi uống rượu với bạn bầu), tài hoa nơi anh lại lấp lánh một cõi lạ. "Những bài thơ thương tật/ trên chiếc bàn thương tật/ làm chi/ nếu đời anh không thương tật" (Câu chuyện về thơ); "Tôi đợi bóng quạ mang về đêm tàn/ tôi khát đôi môi em ngày tôi còn sống/ tôi nhớ đắng ngắt miệng môi tôi/ ngày tôi yêu em" (Cho một tương lai); "Đôi khi tâm hồn tôi phiêu lãng thiên đường/ kể cho thân xác nghe câu chuyện về địa ngục/ đôi khi thiên thần gãy cánh / thân xác kể cho tâm hồn nghe câu chuyện thiên đường" (Câu chuyện thiên đường)...  
Viết tập ký về Trịnh Công Sơn, mỗi câu mỗi chữ của Hoàng ánh lên niềm hạnh ngộ. Anh viết "Bậc thức giả ấy vẫn tiếp tục hành giả, giúp con người thấy rõ gương mặt tình yêu, những hóa thân như có phép chỉ xuất hiện khi ai đó chợt nhận ra những giấc mơ đời hư ảo". Thế là trọn vẹn, có dẫu còn dang dở nhưng đó vẫn là một trong những cuốn sách về Trịnh thành công nhất. Cũng phải thôi, chân tài gặp nhau…

  Đào Đức Tuấn

Thứ Hai, 8 tháng 10, 2012

miền... cực lạc

Người miền Trung

Nhìn sơ qua bản đồ Việt Nam, nếu mường tượng đây là một người phụ nữ, đầu đội nón lá, đôi lưng gầy đang khom khom cặm cụi làm việc thì đôi lưng gầy và cong oằn bắt đầu từ Thanh Hóa, kéo dài đến tận chấm Bình Định, Phú Yên lại là mảnh đất miền Trung thân yêu.

Mảnh đất Việt Nam hình chữ S, ở phía Bắc phình ra giống như chiếc nón. Từ chấm lưng Thanh Hóa đến tận mũi Cà Mau tạo thành một đường cong. Nhìn sơ qua bản đồ Việt Nam, nếu mường tượng đây là một người phụ nữ, đầu đội nón lá, đôi lưng gầy cong oằn đang khom khom cặm cụi làm việc thì đôi lưng gầy và cong oằn bắt đầu từ Thanh Hóa, kéo dài đến tận chấm Bình Định, Phú Yên lại là mảnh đất miền Trung thân yêu.
"Đôi lưng gầy yếu" ấy là điểm tựa của cả gia đình, là nơi gánh nặng nhiều đợt bão lũ thiên tai, là nơi nắng khô hạn mùa hè, là mưa to gió lớn bão lũ vào mùa đông. Sức nặng của thiên tai, hạn hán, lũ lụt, mùa màng thất bát, cái nóng lạnh, đói nghèo, cơ cực mà tấm lưng miền Trung hết năm này qua năm khác cong oằn để đỡ cho "người phụ nữ đội nón lá Việt Nam". Thương lắm đôi lưng trần miền Trung.
Miền Tây, dù cái nghèo vẫn còn, nhưng khí trời thuận lòng người, đói thì cũng có rau, cá, cây trái đầy vườn. Người miền Trung nếu không biết dành dụm, chắt chiu, gom góp thì chỉ cần một lần càn quét của bão, cả nhà hàng chục miệng ăn phải nhịn đói, chịu rét, chia sẻ nhau từng miếng cơm, manh áo nhỏ.
Khổ nỗi, người dân quê nghèo làm lụng, tiền gom góp được thường họ không có thói quen đi gửi ngân hàng, ngân hàng với người miền quê nó sang, xa và lạ lắm. Người dân quê dành dụm được chút ít của ăn của để, lại đem mua heo, mua gà vịt, trâu bò thả đầy trong vườn để nuôi, đó là tài sản quý giá nhất. Họ thường ngày nhìn heo, gà, trâu bò sinh sôi nảy nở, lớn lên, họ lại vui, lại mừng, lại lạc quan về một tương lai tươi sáng.
Bi kịch của họ nằm ở chỗ những tài sản gom góp được quy đổi thành trâu bò, heo, gà chỉ sau một đợt bão lũ kế tiếp lại chết sạch. Mỗi đợt bão lũ đi qua không thiếu hình ảnh nhiều gia đình mất trắng ruộng vườn, trâu bò, gà vịt. Nhà cửa tốc mái, xiêu vẹo, đổ nát đã đành, thứ tài sản vốn dĩ đem gửi “ngân hàng” lại tang thương cuốn trôi theo bão lũ. Đó là chưa kể sau mỗi đợt bão lũ, mất mát tài sản chỉ là một phần, mất mát về con người mới là điều đau thương.
Ai có dịp theo dõi những thước phim chiếu về cảnh bão lũ miền Trung, nước ngập tận nóc nhà, nhiều cụ già ngồi chèo queo nhìn ra biển nước, bất lực và tuyệt vọng. Có nhiều em bé cùng một gia đình mất cả cha lẫn mẹ, ngồi túm tụm trong một góc và khóc nức nở. Trong bụng họ nhiều ngày vẫn chưa có cái ăn, và trên người không lấy một chiếc áo khô ấm để giữ nhiệt cho cơ thể.
Nếu nói sự yên bình về thiên nhiên ở các vùng miền khác, khí trời thuận lòng người để làm ăn sinh sống, thì miền Trung dấu yêu vô tình đã gánh chịu hết những sự trừng phạt của thiên nhiên. Người anh em của chúng ta đấy! Nếu trong một gia đình có người thường xuyên gặp bất hạnh, thì vô tình họ đã gánh hộ nhiều tai ương cho mình, để mình gặp nhiều may mắn và phước đức. Chúng ta phải thương miền Trung, người anh em ruột thịt bất hạnh.
Người miền Trung hay nói về tương lai, bởi vượt ra khỏi cái cơ cực hiện tại, cái khát vọng từ tận đáy lòng của họ là một ngày mới bắt đầu với thời tiết ôn hòa, mùa màng thu hoạch thuận lợi, thoát khỏi cái đói cái nghèo. Người miền Trung hay dành dụm để cho con ăn học đến nơi đến chốn. Với họ, tấm bằng kỹ sư, bác sĩ sẽ giúp tránh bớt khỏi sự trừng phạt khắc nghiệt của thiên nhiên khi hàng ngày phải cầu trời cho mùa màng thuận lợi. Cái bằng nó ổn định, đáng tự hào cho cả gia đình khi con cái học hành thành đạt. Có khổ cỡ nào, khó cỡ nào, con phải được ăn học đầy đủ.
Bởi thế những đứa trẻ được sinh ra và lớn lên tại miền Trung, từ nhỏ đã được thấm nhuần tư tưởng phải dùng tri thức, phải nỗ lực trong học tập thì mai này mới thành tài, mới thoát khỏi cái nghèo, cái khổ. Vì vậy người miền Trung hiếu học, thèm học.
Không khó để về quê, tôi nghe hàng xóm láng giềng kể chuyện, nào là kể thằng Tí đầu xóm làm 2,3 chục triệu/ tháng, cái Hạnh vào công ty ngon, kiếm tiền nhiều, giàu có. Mặc dù khi vào Sài Gòn tôi gặp những người đó, họ cũng bươn chải và khổ cực mới trụ lại được Sài Gòn chứ chẳng phải 2,3 chục triệu hay giàu có như tôi nghe ở quê. Nhưng đó không phải là sự khoe khoang bỗ bã, tôi cho đó là một nét đẹp và thường cười thầm khi nghĩ về những điều ấy.

Khi bạn có con, cơ cực cho con ăn học thành tài thì việc bạn tự hào hay nói quá khi con cái đi làm đó là điều thường tình. Chính sự tự hào đó giúp họ vượt qua được bao nhiêu sự cơ cực, khổ nhọc, để đặt cược cả tương lai vào con cái. Hy vọng “sau này con nó sẽ làm rạng danh dòng họ”. Người miền Trung rất đáng yêu.

Miền Trung vốn dĩ là nơi hội tụ nhiều “đặc sản” văn hóa của người Việt Nam. Miền Bắc từ Nghệ An đổ ra tới Lào Cai, Móng Cái, hoặc miền Nam từ Nha Trang, Ninh Thuận đổ dài đến Cà Mau đều có giọng nói giao tiếp không khó để nghe lẫn nhau. Nhưng đặc biệt ở miền Trung, từ Phú Yên, Bình Định đổ ra tận Quảng Trị, mỗi tỉnh là một đặc sản giọng nói.

Người Bình Định và Quảng Ngãi không quen thì nói với nhau như 2 bên chửi lộn. Hoặc người Quảng Nam mà nói với người Quảng Trị thì nghe cũng “khó đỡ”. Người Quảng Ngãi có thể đổ lỗi cho người Bình Định nói “khó nghe quá”. Người Bình Định thì cười phá lên “cái thằng quỷ này nó nói cũng có ai nghe được chữ nào đâu mà nói mình khó nghe”.
Đặc sản giọng nói ở miền Trung ít vùng miền nào ở Việt Nam có được, mà nào chỉ có giọng nói, nếu nói về ẩm thực miền Trung thì lại là một thế giới khác. Ai đã ăn bánh nậm bánh lọc, bánh mèo, bún bò Huế, ai từng ăn mì Quảng, bún chả cá Quy Nhơn, nem Ninh Hòa, nem Chợ Huyện Bình Định, bánh ít, bánh hồng, bánh tráng nước dừa? Ai từng thưởng thức bánh canh cá dầm Nha Trang, cơm gà Hội An, bì Tré chua chua ngọt ngọt... Nói về ẩm thực thì đặc sản miền Trung là một kho báu nhiều sắc màu mà không phải ai cũng có dịp ghé qua và trải nghiệm.
Tôi kể về người miền Trung với niềm tự hào riêng là người miền Trung. Con gái miền Trung, phần nhiều đều mang đầy đủ nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam mà văn học miêu tả, chịu thương chịu khó, chung thủy hết mực. Con trai miền Trung thật thà, chất phác, luôn lạc quan về tương lai và nỗ lực, chịu khó ở hiện tại.
Người miền Trung tâm lý “xóm làng” vẫn còn nhiều. Khi vào Sài Gòn, chứng kiến một đám tang ở Sài Gòn mà tôi không biết “nên vui hay nên buồn”. Đám tang ở đây nhạc xập xình, thuê người nhảy múa hát hò suốt đêm, toàn bộ mọi thứ từ dàn nhạc đến người khóc thuê phải bỏ tiền ra để có được một đám tang chỉn chu và nhiều tiếng tăm.
Người miền Trung không phải vậy, đám tang của một người, hàng xóm kế bên là người tới phụ dọn dẹp, căng bạt, dựng trại. Mọi công việc đào huyệt, khiêng quan, liệm, huy động xe khách và xe quan đều do hàng xóm láng giềng và người thân phụ giúp không lấy tiền. Nếu có chăng người không thân thích như mấy anh tài xế xe quan, xe khách chở người đi đến nghĩa địa, hầu như họ không lấy tiền. Đó vốn dĩ được họ quan niệm cũng là tạo phúc đức cho bản thân mình, và giúp đỡ người trong lúc tang gia bối rối.
Người miền Trung quan tâm và đùm bọc lẫn nhau rất nhiều. Họ hiểu rằng, chỉ có sự yêu thương, quan tâm lẫn nhau thì mới có thể chống chọi lại những sự trừng phạt khắc nghiệt của thiên nhiên, của cuộc sống, của cái nghèo khổ, cơ cực mà hàng ngày họ vẫn phải gánh chịu.
Nói về chuyện lập gia đình, nhiều đứa bạn tôi còn “bị” gia đình khuyên ngăn không nên quen con gái miền Nam, nên lấy con gái miền Trung, tuy nghèo 1 chút, tuy không “thời trang phấn son” hay “da trắng như trứng gà bóc” - nhưng họ tin tưởng vào con gái miền Trung, con gái miền Trung chung thủy và chịu thương chịu khó, biết quan tâm đến gia đình và lo cho chồng con.
Có thể những điều trên không phải là đúng tất cả, con gái miền khác hay những nét đẹp miền khác vẫn là những niềm tự hào của riêng mỗi vùng miền. Nhưng thôi kệ, tôi là người miền Trung, hãy cứ tự hào, dù miền Trung còn nghèo, còn vất vả và cơ cực nhiều.
BÁ TÍN
(vnexpress.net)